Nguồn: Mark Skousen (2007). “John Maynard Keynes: Capitalism Faces Its Greatest Challenge”, in M. Skousen, The Big Three in Economics: Adam Smith, Karl Marx, And John Maynard Keynes (New York: M.E.Sharpe), pp. 133-162.
Biên dịch và Hiệu đính: Nguyễn Hoàng Hà
Tôi hy vọng một nghìn năm kể từ thời kỳ 1920-1970 sẽ là khoảng thời gian cho những nhà viết sử. Nó khiến tôi phát cuồng khi nghĩ về nó. Tôi tin rằng nó sẽ khiến những nguyên lý nghèo nàn của tôi, với rất nhiều người bạn nghèo nàn, trở thành trang giấy lộn.[1]
– Alfred Marshall (1915)
Keynes không phải là người theo chủ nghĩa xã hội, ông đến để cứu chủ nghĩa tư bản, không phải để chôn nó. . . Trong lịch sử khoa học xã hội chưa từng có thành tựu nào tương tự như của Keynes.
– Paul Krugman (2006)
Hệ thống tự do tự nhiên tư bản chủ nghĩa vốn được sáng lập bởi Adam Smith, điều chỉnh bởi cuộc cách mạng lãi suất và đã được cải tiến bởi Marshall, Fisher và những người Áo, đang trong tình trạng khó khăn triền miên. Những ưu điểm của tiết kiệm, ngân sách cân bằng, thuế thấp, chuẩn mực vàng, và quy luật của Say đang bị tấn công hơn bao giờ hết. Ngôi nhà mà Adam Smith xây dựng đang có nguy cơ sụp đổ.
Cuộc Đại suy thoái những năm 1930 là sự kiện kinh tế gây thiệt hại nhất trong thế kỷ 20. Nó đặc biệt gây sốc đối với những tiến bộ to lớn của mức sống phương Tây trong kỷ nguyên mới của thế kỷ 20. Những mức sống này bị hạn chế trong suốt những năm 1929-1933, tâm điểm của cuộc suy thoái. Ở nước Mỹ, sản lượng công nghiệp giảm trên 30%. Hơn một phần ba số ngân hàng thương mại sụp đổ hoặc phải sáp nhập. Tỷ lệ thất nghiệp tăng trên 25%. Cổ phiếu mất giá tới 88%. Châu Âu và phần còn lại của thế giới phải đối mặt với sự hỗn loạn tương tự.
Hai người Áo Mises và Hayek, cùng với các nhà kinh tế về tiền hợp lý ở Mỹ đã tiên đoán trước vấn đề, nhưng cảm thấy không làm được gì khi phải đối mặt với một sự đình đốn không thể chấm dứt ngay. Một cuộc phục hồi mới dưới chính sách kinh tế xã hội mới của Roosevelt bắt đầu vào giữa những năm 1930 nhưng không duy trì được lâu. Thất nghiệp ở Mỹ vẫn giữ ở mức hai con số trong suốt thập kỷ và không giải quyết được cho đến tận Chiến tranh thế giới lần thứ 2. Châu Âu cũng không ở trong tình trạng tốt hơn, ngoại trừ nước Đức quân phiệt của Hitler là có việc làm đầy đủ khi chiến tranh đến gần. Trong thế giới tự do, nỗi sợ bị mất việc, bị đói, và chiến tranh hiển hiện một cách đáng lo ngại.
Sự kéo dài và mức độ dữ dội của cuộc đại suy thoái khiến hầu hết các nhà kinh tế học Anh – Mỹ phải nghi ngờ kinh tế học cổ điển với chính sách tự do kinh doanh và khả năng một hệ thống tư bản chủ nghĩa thị trường tự do có thể tự điều chỉnh. Sự công kích diễn ra ở cả hai cấp độ: đặc điểm cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản (vi mô) và sự ổn định của nền kinh tế nói chung (vĩ mô).
Có phải mô hình cạnh tranh cổ điển là không hoàn hảo?
Ở mức độ vi mô, hai nhà kinh tế học cùng viết sách một cách độc lập đặt ra thách thức đối với mô hình cạnh tranh cổ điển. Năm 1933, Nhà xuất bản Đại học Harvard phát hành cuốn sách Lý thuyết về cạnh tranh độc quyền [The Theory of MonopolisticCompetition] viết bởi Edward H. Chamberlin (1899-1967), và Nhà xuất bản Đại học Cambridge xuất bản cuốn Kinh tế học của cạnh tranh không hoàn hảo [Economics of Imperfect Competition] viết bởi Joan Robinson (1903-1983). Cả hai nhà kinh tế học đưa ra ý tưởng rằng có các mức độ cạnh tranh khác nhau trên thị trường, từ “cạnh tranh thuần túy” đến “độc quyền thuần túy”, và rằng hầu hết các điều kiện thị trường là “không hoàn hảo” và có liên quan đến các mức độ sức mạnh độc quyền. Lý thuyết Chamberlin-Robinson về cạnh tranh không hoàn hảo nắm bắt được ý tưởng này và trở thành một đặc điểm không thể thiếu của kinh tế học vi mô kể từ đó. Lý thuyết này đưa ra những gợi ý chính sách mạnh mẽ. Chính sách tự do kinh doanh là có khiếm khuyết và không thể đảm bảo các điều kiện cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản; Chính phủ phải can thiệp thông qua kiểm soát và các hành động chống độc quyền để giảm bớt các xu hướng độc quyền tự nhiên của kinh doanh.
Mối đe dọa chính của chủ nghĩa tư bản
Tuy nhiên mối đe dọa này là thứ yếu so với những đe dọa phi tư bản trong kinh tế vĩ mô. Chủ nghĩa Mác là tất cả mối quan tâm trong khuôn viên các trường đại học và các học giả trong suốt thập kỷ 1930. Paul Sweezy, một người tốt nghiệp từ Harvard, đã đến Trường Kinh tế London vào đầu thập kỷ 1930 chỉ để đối đáp lại với một người theo chủ nghĩa Mác, sẵn sàng dạy những tư tưởng cấp tiến tại trường ông. Sidney và Beatrice Webb trở về từ Liên bang Xô Viết, tràn đầy lạc quan, củng cố niềm tin rằng Stalin đã mở đầu một “nền văn minh mới” về toàn dụng lao động và sự ưu việt hơn về kinh tế. Liệu chủ nghĩa xã hội có phải là sự thay thế duy nhất cho một hệ thống tư bản chủ nghĩa thiếu ổn định?
Ai sẽ cứu chủ nghĩa tư bản?
Các học giả chừng mực hơn lại tìm kiếm một sự thay thế cho chủ nghĩa xã hội quy mô lớn, quốc hữu hóa và kế hoạch hóa tập trung. May mắn là có một tiếng nói đầy sức mạnh đưa ra quan điểm trung lập, một cách để duy trì được tự do kinh tế mà chính phủ không cần nắm toàn bộ nền kinh tế và phá bỏ các nền tảng của văn minh phương Tây.
Đó là tiếng nói của John Maynard Keynes, người đứng đầu trường phái Cambridge mới. Trong quyển sách ông viết có tính cách mạng năm 1936, Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ [The General Theory of Employment, Interest and Money], Keynes biện hộ rằng chủ nghĩa tư bản vốn dĩ đã không ổn định và không có xu hướng tự nhiên hướng đến toàn dụng lao động. Đồng thời ông bác bỏ sự cần thiết phải quốc hữu hóa nền kinh tế quốc dân, áp dụng kiếm soát giá – lương, và can thiệp vào các cơ sở nền tảng vi mô của cung và cầu. Tất cả những gì cần là để chính phủ kiểm soát một bánh lái tư bản chủ nghĩa không dễ dàng điều khiển và để chiếc xe trở lại con đường đi đến thịnh vượng. Làm thế nào đây? Không phải thông qua giảm giá và lương theo cách cổ điển, mà bằng cách tiến hành thâm hụt quốc gia một cách thận trọng và sử dụng tiền vào các công trình công cộng mà sẽ tăng tổng cầu và khôi phục niềm tin. Một khi nền kinh tế trở lại con đường của nó và đạt được toàn dụng lao động, chính phủ sẽ không cần sử dụng thâm hụt, và mô hình cổ điển có thể vận hành một cách hoàn hảo.
Như Keynes đã viết “Nhưng vượt ra ngoài vấn đề này, không có trường hợp rõ ràng nào cho một hệ thống xã hội chủ nghĩa nhà nước nào bao quát được hầu hết đời sống kinh tế trong cộng đồng” (Keynes 1973a [1936], 378). Thông điệp của ông thực sự đơn giản, nhưng thể hiện sự thay đổi to lớn: “Thất nghiệp hàng loạt có một lý do đơn nhất, không đủ cầu, và một giải pháp đơn giản là mở rộng chính sách tài khóa” (Krugman 2006).
Mô hình quản lý tổng cầu của Keynes làm thay đổi kinh tế chính trị của những người lạc quan: rốt cuộc thì con người có thể làm chủ được số phận kinh tế. Ông cho rằng chính phủ có thể mở rộng hoặc giảm tổng cầu khi các điều kiện dường như xóa bỏ chu kỳ vốn có của chủ nghĩa tư bản mà không cần phải xóa bỏ bản thân chủ nghĩa tư bản. Trong khi đó chính sách tự do kinh doanh trong tự do kinh tế có thể được theo đuổi ở cấp độ kinh tế vi mô. Tóm lại chính sách trung lập của Keynes được xem không phải là mối đe dọa đối với doanh nghiệp tự do, mà là người cứu vớt nó. Trên thực tế, thuyết kinh tế của Keynes đưa lý thuyết đối lập chính của nó, chủ nghĩa Mác, tới chỗ dừng lại hoàn toàn ở các nước tiến tiến (Galbraith 1975 [1965], 132).
“Giống như một tia sáng trong đêm tối”
Cuộc cách mạng học thuyết kinh tế của Keynes diễn ra hầu như trong chốc lát, đặc biệt là trong số những người trẻ nhất và sáng giá nhất, chuyển sự trung thành từ người Áo sang Keynes. John Kenneth Galbraith viết: “Ông là một phương thuốc cho những thất vọng… Không phá bỏ hệ thống mà là cứu nó. Đối với những nhà phi cách mạng, điều này dường như quá tốt để trở thành sự thật. Đối với những nhà cách mạng không thường xuyên, điều này cũng vậy. Kinh tế học cổ điển trước đây thường được dạy vào ban ngày. Nhưng vào buổi tối, và hầu hết các buổi tối kể từ năm 1936, hầu hết tất cả mọi người nói về Keynes” (Galbraith 1975 [1965], 136). Milton Friedman, người sau này trở thành một người đối lập quyết liệt của lý thuyết Keynes, nói “Trái ngược với bức tranh tăm tối này [đơn thuốc chính sách kinh tế tự do của người Áo], những tin tức lan truyền ra ngoài từ Cambridge (Anh) về giải thích của Keynes đối với tình trạng đình đốn và chính sách đúng đắn để giải quyết đã trở thành ánh đèn sáng trong đêm tối. Nó đưa ra một chẩn đoán bi quan hơn rất nhiều về căn bệnh. Quan trọng hơn, nó đưa ra một liều thuốc tức thời hơn, ít đau đớn hơn, và hiệu quả hơn dưới hình thức thâm hụt ngân sách. Dễ dàng thấy được làm thế nào mà một bộ óc trẻ trung, đầy sinh lực và khoáng đạt bị thu hút vào nó” (1974, 163).
Mô hình quản lý tổng cầu của Keynes lan truyền trong giới thậm chí còn nhanh hơn cuộc cách mạng lãi suất, đặc biệt sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, dường như minh chứng cho lợi ích của việc chi tiêu thâm hụt và chi tiêu của chính phủ hàng loạt. Không lâu sau đó các giáo sư đồng nghiệp, dưới sự hướng dẫn của Alvin Hansen, Paul Samuelson, Lawrence Klein, và các học trò khác của Keynes, bắt đầu dạy sinh viên về hàm tiêu dùng, số nhân, xu hướng tiêu dùng biên, nghịch lý của tiết kiệm, tổng cầu, và C + I + G. Đó là một học thuyết mới, lạ, và thú vị. Và đó là sự bắt đầu cho một lĩnh vực nghiên cứu hoàn toàn mới được gọi là “kinh tế học vĩ mô”[2].
Điểm tối của Keynes
Keynes có thể đã đưa ra một liều thuốc hợp lý cho tình trạng đình đốn, nhưng những lý thuyết của ông cũng tạo ra một môi trường hậu chiến thuận lợi cho chủ nghĩa can thiệp của nhà nước ở khắp nơi, nhà nước phúc lợi, và niềm tin vô hạn vào một chính phủ lớn. Các lý thuyết của ông khuyến khích tiêu dùng quá mức, tài trợ nợ, và đánh thuế lũy tiến trên tiết kiệm, ngân sách cân bằng và thuế thấp. Những người chỉ trích coi kinh tế học của Keynes công kích trực tiếp vào các giá trị kinh tế truyền thống và mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với các nguyên lý tự do kinh tế. Với họ, lý thuyết chung của Keynes “tạo ra một sự công kích tinh vi nhất và gây hại nhất đối với chủ nghĩa tư bản chính thống và kinh doanh tự do xuất hiện trong ngôn ngữ Anh” (Hazlitt 1977 [1960], 345). Như Paul Krugman lưu ý, “Nếu học thuyết của bạn nói rằng các thị trường tự do, để mặc chúng tự xoay xở, làm ra tất cả những gì tốt nhất có thể, và rằng sự can thiệp của chính phủ đối với nền kinh tế làm cho mọi việc xấu đi, thì Keynes là kẻ thù của bạn” (Krugman 2006).
Mặc dù đôi lúc có những tuyên bố rằng Keynes đã chết, nhưng tư tưởng học thuyết kinh tế của Keynes vẫn tràn ngập các học viện và trường học, tòa nhà quốc hội, phố Wall, và tạp chí Time đã bầu Keynes xứng đáng là nhà kinh tế học có ảnh hưởng nhất thế kỷ 20. Nhà viết tiểu sử Charles Hession đã viết “Các sách và bài báo viết về ông nhiều hơn bất kỳ nhà kinh tế nào khác, trừ một ngoại lệ khác có thể là Các Mác” (1984, xiv). The New Palgrave dành cho Keynes số trang viết tiểu sử nhiều nhất: 20 trang so với 15 trang viết về Mác. Và nhà viết tiểu sử về Keynes gần đây nhất, Robert Skidelsky, đã đặt ông lên bệ: “Keynes là một nhân vật kỳ diệu, và đúng là ông đã để lại một công trình kỳ diệu. Chưa từng có một nhà kinh tế nào như ông” (1992, 537).
Keynes xuất thân từ tầng lớp tinh hoa chi phối nước Anh
Keynes là người như thế nào, ai có thể đem lại sự sùng bái và sự thù địch đến như vậy? John Maynard Keynes (1883-1946) là một người tinh hoa trí thức từ khi còn nhỏ. Một lần khi được hỏi phát âm tên của mình như thế nào ông trả lời “Keynes, giống như phát âm từ ‘brain’ [bộ óc].” Sinh năm 1883 (năm Mác mất) tại trung tâm của nơi đầu não nhất nước Anh, ông là con của John Neville Keynes, một giáo sư kinh tế học tại đại học Cambridge và là một người bạn của Alfred Marshall. Neville sống lâu hơn con trai ông, Maynard, 3 năm, mất vào năm 1949 ở tuổi 97. Mẹ của ông, Florence Ada Keynes, cũng nổi tiếng bởi là nữ thị trưởng đầu tiên của Cambridge. Keynes thường xuyên gần gũi với mẹ của ông trong khi bố ông ở xa. Bố ông viết trong nhật ký của ông năm 1891, khi Maynard mới được 8 tuổi: “Người duy nhất nó muốn trở thành là mẹ của nó, nó muốn giống mẹ nó trong mọi thứ” (Hession 1984, 11).
Keynes đến học ở trường tư tốt nhất nước Anh, Eton, và sau đó tham dự Đại học Cambridge nơi ông nhận được bằng về toán học năm 1905. Sau đó ông viết một cuốn sách gây tranh cãi về lý thuyết xác suất.
Bạn bè coi ông là người sớm phát triển, thông minh và đôi lúc khiếm nhã. Điểm nổi bật nhất là “đôi mắt phóng đãng” và một “trí óc nhanh nhạy” (Skidelsky 1992, xxxi). Keynes tự coi mình là người “lạnh lùng về mặt thể chất”. Tuy nhiên ông được chọn là một trong một tá thành viên của những người đề xướng cải cách, một hội bí mật tại Cambridge (không khác với nhóm Skull and Bones tại Yale). Tư cách thành viên là trọn đời. Các thành viên quan trọng khác thuộc nhóm này là nhà thơ Alfred Lord Tennyson, nhà viết tiểu sử Lytton Strachey, và triết gia Bertrand Russell, G.E. Moore, Alfred North Whitehead. Những người đề xướng cải cách là một nhóm gắn bó, gặp mặt vào tối thứ 7 hàng tuần để thảo luận về các bài viết.
Sự thật về sự đồng tính luyến ái của Keynes
Sang thế kỷ 20, những người đề xướng cải cách, chịu ảnh hưởng của G.E. Moore, đã làm tăng sự coi thường cao độ đối với đạo lý của thời đại Victoria và những giá trị của giai cấp tư sản. Thậm chí họ còn đưa ra những ý tưởng có tính nổi loạn rằng đồng tính luyến ái là tốt hơn về mặt đạo đức. Keynes là một người đồng tính luyến ái trong suốt thời gian đầu trưởng thành, mặc dù dường như ông đã từ bỏ được nó khi cưới Lydia Lopokova năm 1925. Thực tế này đã được nhà viết tiểu sử chính thức của ông Roy Harrod giấu đi vì sợ rằng nó sẽ phá hủy danh tiếng của Keynes. Trong phần giới thiệu, Harrod giải thích: “Về khiếm khuyết của ông, tôi không nhận thấy bất kỳ một sức ép nào [về thực tế]. Những lời chỉ trích ác ý hoặc thiếu thông tin là không có cơ sở thực tế” (Harrod 1951, viii). Nhưng đúng là có sức ép. Thông tin tiểu sử gần đây của ông do Robert Skidelsky (2003), D.E. Moggridge (1992), và Charles Hession (1984) đã dành ra một số khám phá chi tiết về đời sống tình dục của Keynes. Thậm chí Moggridge đã đi xa hơn khi in nhật ký liên quan đến tình dục của Keynes trong một phụ lục (1992, 838-39).
Khuynh hướng tình dục của Keynes có thể chịu ảnh hưởng bởi cuộc sống gia đình của ông (bà mẹ bảo vệ quá mức cần thiết còn ông bố nhu nhược); trường Eton chỉ dành cho nam sinh nơi giảng dạy triết lý Hy Lạp rằng tình yêu thuần khiết giữa những người đàn ông thì cao hơn về mặt tinh thần so với tình yêu thể xác giữa một người đàn ông và một người đàn bà; và các tư tưởng của G.E. Moore, người thuyết giáo về sự coi thường đạo đức và các quy tắc đạo đức chung. Keynes tin tưởng chắc chắn vào việc sống “một cuộc sống tốt” mà không cần quan tâm đến đúng hay sai “Quá muộn để mà thay đổi. Tôi là, và luôn luôn là, một người theo thuyết phi đạo đức”, ông viết (Hession 1984, 46).
Keynes có phải là một người ghét đàn bà? Sự yêu quý đàn ông của Keynes có thể đã ảnh hưởng đến thái độ của ông đối với đàn bà trong những năm giảng dạy đầu tiên. Giống như Marshall, ông không thích sự có mặt của sinh viên nữ trong lớp học của mình. Năm 1909, khi đang giảng dạy tại Cambridge, ông viết: “Tôi nghĩ rằng tôi sẽ phải dừng dạy cho nữ sinh viên sau năm nay. Sự bực bội căng thẳng do hai giờ phải tiếp xúc với họ là rất dữ dội. Dường như tôi ghét mọi sự vận động trong đầu óc họ. Đầu óc của nam giới, kể cả khi họ ngốc nghếch và bực bội thì với tôi cũng không bao giờ khó chịu đến như vậy” (Moggridge 1992, 183-34).
Tuy nhiên Keynes gây sốc với những người bạn đồng tính của ông ở Bloomsbury khi ông tuyên bố đính hôn và sau đó cưới Lydia Lopokova, một nữ diễn viên ba-lê người Nga năm 1925. Dựa trên lá thư riêng giữa Maynard và Lydia, cuộc hôn nhân của họ vượt xa tình yêu thuần khiết. “Quan hệ tình dục thực sự đã có” nhà viết tiểu sử Robert Skidelsky viết (1992, 110-11; 2003, 300, 356-60). Keynes còn có mối quan hệ tình bạn với phụ nữ trong suốt những năm 1930, trong đó có Joan Robinson.
Nhưng chúng ta đang đi quá xa câu chuyện của mình. Sau khi tốt nghiệp, Keynes tham gia cơ quan chính phủ Anh, làm việc 2 năm trong Văn phòng Ấn Độ (mặc dù chưa bao giờ sang Ấn Độ). Năm 1909 ông là giảng viên tại Cambridge, từ 1911 đến 1944 là biên tập tổng hợp cho Tạp chí Kinh tế của Cambridge. Ông không được đào tạo về kinh tế học, mà chỉ tham dự một khóa của Alfred Marshall, nhưng nhanh chóng có được các kỹ năng để dạy nó.
Keynes viết một cuốn sách bán chạy nhất
Năm 1919, sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Keynes là chuyên viên cao cấp Bộ tài chính của Phái đoàn Anh tại Hội nghị hòa ước Versailles. Lo lắng bởi những nghi thức, ông từ chức và viết Hậu quả kinh tế của hòa bình [The Economic Consequences of the Peace] (1920). Nó trở thành cuốn sách bán rất chạy và khiến Keynes trở nên nổi tiếng và giàu có.
Nhiều nhà phê bình coi đây là cuốn sách hay nhất của Keynes. Dưới dạng văn viết sắc sảo, ông phát hiện ra những nét cá nhân riêng biệt của các nhà lãnh đạo đồng minh.[3] Keynes lên án các nước đồng minh áp đặt Đức phải bồi thường một cách không tưởng và phi thực tế. Các nước thất trận phải trả toàn bộ chi phí chiến tranh cho các nước đồng minh, bao gồm lương, lương hưu và tiền tuất cho quân đội tới 5 tỷ USD “bất kể bằng vàng, hàng hóa, tàu, chứng khoán hay bất kỳ thứ gì khác” trước 1/5/1921. “Sự tồn tại của các khoản nợ chiến tranh to lớn là mối đe dọa đối với sự ổn định tài chính ở mọi nơi”, Keynes cảnh báo (1920, 279). Keynes dự báo một cách bi quan về hậu quả ở Châu Âu. Ông cho rằng nước Đức không còn cách nào khác ngoài gây lạm phát. Trong một thông điệp nổi tiếng, Keynes lưu ý: “Lenin đã thực sự đúng. Không có biện pháp nào tinh vi và chắc chắn để lật đổ những nền tảng hiện có của xã hội hơn là làm bại hoại đồng tiền. Quá trình này kéo tất cả các lực lượng bị che khuất của quy luật kinh tế vào sự hủy hoại, và tiến hành nó theo cách thức mà không ai có thể chẩn đoán được” (1920, 236)[4].
Keynes đưa ra một dự báo xuất sắc khác vào năm 1925
Keynes tiếp nối thành công này với một phân tích sâu sắc khác vào năm 1925 khi nước Anh, dưới thời Bộ trưởng phụ trách kinh tế – tài chính Winston Churchill, trở lại bản vị vàng với tỷ giá hối đoái cố định được đánh giá cao trước chiến tranh là 4,86 USD. Keynes vận động chống lại biện pháp giảm phát này. Trong cuốn Ảnh hưởng kinh tế của Churchill [The Economic Consequences of Mr. Churchill], với tư cách là giảng viên tại Cambridge, ông cảnh bảo rằng thiểu phát sẽ khiến nước Anh phải giảm tiền lương thực tế và làm chậm tăng trưởng kinh tế (Keynes 1951 [1931], 244-70). Một lần nữa, Keynes chứng minh rằng ông có thể thấy trước. Nước Anh ở trong tình trạng bất ổn về kinh tế vốn trở nên càng tồi tệ khi đại suy thoái xảy ra.
Không may là tài tiên tri của Keynes lại biến mất vào cuối những năm 1920. Trong bài Về cải cách tiền tệ [Tract on Monetary Reform] mà Milton Friedman đánh giá là tác phẩm lớn nhất của Keynes, ông cùng với nhà tiền tệ Irving Fisher bác bỏ bản vị vàng, và sau đó ca ngợi tác động ổn định của đồng đô la Mỹ những năm 1923 – 1928 như là “thắng lợi” của Cục Dự trữ Liên bang.
“Chúng ta sẽ không có sự đổ vỡ nào nữa trong thời đại chúng ta”
Giống như Fisher, Keynes là một người ủng hộ Kỷ nguyên mới vốn lạc quan về giá cổ phiếu và hàng hóa trong suốt thập niên 1920. Năm 1926, ông gặp giám đốc ngân hàng Thụy Sỹ Felix Somary, nóng lòng mua cổ phiếu. Khi Somary thể hiện sự bi quan về tương lai của thị trường chứng khoán, Keynes tuyên bố chắc chắn: “Chúng ta sẽ không có sự đổ vỡ nào nữa trong thời đại chúng ta” (Somary 1986 [1960], 146-47). Somary đã học kinh tế học ở Áo, trường đại học Viên và biết rằng sự bùng nổ Kỷ nguyên mới là không bền vững. Nhưng Keynes, giống như Irving Fisher, không để ý đến ý kiến của người Áo và đặt niềm tin vào Cục Dự trữ Liên bang và ổn định giá.
Vào cuối năm 1928, Keynes viết hai bài, nghi ngờ rằng “lạm phát nguy hiểm” đang diễn ra ở phố Wall, kết luận rằng “không có gì có thể gọi là lạm phát ở trong tầm nhìn”. Đề cập đến giá trị bất động sản và chứng khoán ở nước Mỹ, Keynes bổ sung, “Tôi kết luận rằng bây giờ sẽ là sớm để khẳng định sự tồn tại của việc đầu tư quá mức… Do vậy tôi có thể dự báo rằng chứng khoán sẽ không sụt giảm mạnh (nghĩa là dưới mức thấp như hiện nay) nếu thị trường không có sự đình trệ kinh doanh”. “Những điều này hoàn toàn khó có thể xảy ra do Ban điều hành Cục Dự trữ Liên bang sẽ làm hết sức mình để tránh một sự trì trệ trong kinh doanh” (Keynes 1973b, 52-59; Hession 1984, 238-39).
Kiếm tiền từ trong phòng ngủ của mình
Lẽ ra Keynes không nên tự tin đến vậy. Vào cuối những năm 1920, ông đã phát triển được danh tiếng về kinh doanh tài chính một cách tài tình, tiền tệ, hàng hóa và chứng khoán. Ông là chủ tịch Công ty bảo hiểm nhân thọ tương hỗ quốc gia và được hưởng trợ cấp của King’s College tại Cambridge. Tài khoản cá nhân của ông bao gồm nhiều hàng hóa và chứng khoán. Ông giữ vị trí lâu dài trong các hợp đồng tương lai về cổ phiếu cao su, ngô, bông, thiếc và ô tô của Anh.
Thực vậy, ông được biết đến là người ra các quyết định mua bán trong khi đang ở trên giường. Reports Hession cho rằng “Một số quyết định tài chính của ông được thực hiện trong khi ông vẫn ở trên giường vào buổi sáng; các báo cáo của nhà môi giới sẽ đến với ông qua điện thoại, và ông sẽ đọc báo và ra quyết định” (Hession 1984, 175).
Keynes bị mất hết tài sản bởi sự sụp đổ
Bi kịch thay, Keynes hiểu sai thời đại và thất bại trong việc dự báo sự sụp đổ. Danh mục đầu tư của ông hầu như bị mất hết: ông mất 3/4 tổng giá trị tài sản, chủ yếu là vì mất giá hàng hóa (Moggridge 1983, 15-17; Skidelsky 1992, 338-43). Trong chuyên luận về tiền tệ của ông xuất bản năm 1930, ông thừa nhận rằng ông đã hiểu sai về các chỉ số giá ổn định những năm 1920, và rằng tình trạng “lạm phát lợi nhuận” đã hình thành (1930, 190-98).
Tuy nhiên Keynes, một nhà đầu tư cứng cỏi, vẫn giữ các cổ phiếu của mình và tăng thêm danh mục đầu tư năm 1932. Mặc dù ông không được đứng hàng đầu nhưng ông có khả năng phi thường nắm được các cổ phiếu ở đáy thị trường (Skousen 1992, 161-69). Ông mua các cổ phiếu không được ưa chuộng như cổ phiếu ngành công cộng và vàng, và chắc chắn với chiến lược của mình đến nỗi ông đã mua rất nhiều bằng cách ký quỹ. Năm 1944, ông viết cho một người quản lý tiền: “Nguyên tắc chính của đầu tư của tôi là đi ngược với quan điểm chung bởi vì nếu mọi người đều đồng ý về giá trị của nó thì rõ ràng là đầu tư sẽ rất đắt đỏ và như vậy không hấp dẫn” (Moggridge 1983, 111).
Keynes vẫn tiếp tục quản lý cho đến lúc chết trong sự giàu có đáng kinh ngạc
Keynes thành công một cách ngoạn mục khi chọn các cổ phiếu, đưa giá trị cổ phiếu của ông lên tới 411.000 bảng khi ông mất vào năm 1946. Với danh mục đầu tư chỉ có 16.315 bảng năm 1920, lợi nhuận hàng năm là 13%, vượt xa những nhà quản lý tiền chuyên nghiệp đạt được và là một thành công đáng kinh ngạc trong thời kỳ mà lạm phát rất thấp hoặc không có lạm phát, và trên thực tế là thiểu phát. Và lợi nhuận kỳ diệu này có được bất chấp đại suy thoái năm 1929-32 và 1937-38. Chỉ có David Ricardo là có thành tích hơn ông với tư cách nhà kinh tế tài chính.
Một cuốn sách có tính cách mạng xuất hiện
Thất bại của Keynes trong việc dự đoán sự sụp đổ và cuộc đại suy thoái ảnh hưởng sâu sắc đến suy nghĩ của ông. Ông buồn lòng một cách chua chát với những kẻ đầu cơ đã đưa giá xuống thấp một sách ngớ ngẩn suýt đưa ông đến nhà tế bần. Ông đã phản đối chính sách kinh doanh tự do trong thời gian rất lâu trước đó như là một nguyên tắc tổ chức chung trong xã hội, nhưng cuộc khủng hoảng 1929-33 chỉ củng cố mạnh mẽ hơn sự đối lập của ông với kinh tế học cổ điển truyền thống. Đài BBC đưa tin ông chửi rủa những kẻ tích trữ, đầu cơ, chuộng vàng, trong khi khuyến khích tiêu dùng thâm hụt, lạm phát, và bỏ chế độ bản vị vàng như là giải pháp cho thời kỳ khủng hoảng. Ông chỉ trích Friedrich Hayek và trường Kinh tế London đã tin tưởng rằng nền kinh tế tự điều chỉnh và tăng cường giảm lương và ngân sách cân bằng như là các giải pháp cho suy thoái.
Trong lúc đó, tại nhà của mình ở Cambridge, Keynes viết một cuốn sách đưa ra một mô hình mới về kinh tế học với sự trợ giúp của Richard Kahn, Joan Robinson, và một trường phái Cambridge mới đã phát triển xung quanh ông. Vào ngày đầu năm mới năm 1935, Keynes viết cho Nhà viết kịch George Bernard Shaw: “Tôi tự tin vào việc viết một cuốn sách về lý thuyết kinh tế mà sẽ cách mạng hóa một cách rộng rãi – tôi nghĩ không phải ngay lập tức mà trong vòng 10 năm tới – đối với cách mà thế giới nghĩ về các vấn đề kinh tế” (Skidelsky 2003, 518). Đó là điều báo trước một cách ngạo mạn, nhưng đã được chứng minh là đúng.
Như đã đề cập ở trên, Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ xuất hiện lần đầu năm 1936.[5] Giống như các nhà kinh tế học khác, Keynes tự liên hệ mình với những nhà khoa học vĩ đại nhất trước đây. Adam Smith và Roger Babson so sánh các hệ thống phân tích của họ với những hệ thống của Sir Isaac Newton, và Keynes tranh đua với Albert Einstein. Tên cuốn sách của Keynes liên hệ đến thuyết tương đối chung của Einstein. Ông nói, cuốn sách của ông tạo ra một lý thuyết “chung” về hành vi kinh tế trong khi ông đưa mô hình cổ điển vào trường hợp “đặc biệt” và coi những nhà kinh tế học cổ điển là “những nhà hình học Ơclit trong một thế giới phi-Ơclit” (Skidelsky 1992, 487).
Giống như Mác, Keynes hy vọng to lớn rằng tác phẩm chính của ông sẽ được sinh viên và đông đảo công chúng đọc và thuyết phục nhà xuất bản Macmillan định giá cho luận thuyết dài 400 trang của mình chỉ ở mức 5 xi-ling. Nhưng đó là một mơ tưởng. Cuốn Lý thuyết chung đã trở thành cuốn sách duy nhất rất khó đọc của Keynes, đầy thuật ngữ chuyên môn và ngôn ngữ khó hiểu. Ricardo và Mác có những cuốn sách đau đầu và Keynes cũng vậy. Những câu hỏi và trả lời dưới đây cho thấy một số khó khăn trong cuốn Lý thuyết chung (Cảm ơn Roger Garrison, giáo sư kinh tế tại đại học Auburn đã cung cấp đoạn châm biếm này).
Cuốn sách đau đầu của Keynes
Hỏi: Thưa Giáo sư Keynes, ông nói “thất nghiệp không tự nguyện” nghĩa là gì?
Trả lời: “Định nghĩa của tôi là… như sau: Con người là thất nghiệp không tự nguyện nếu như, trong trường hợp có sự tăng một chút giá của hàng hóa – lương so với lương – tiền, cả tổng cung lao động sẵn sàng làm việc với mức lương – tiền hiện tại và tổng cầu đối với nó ở mức lương đó sẽ lớn hơn tổng số việc làm” (1973a [1936], 15).
Hỏi: Hừm… nghe có vẻ rất khai sáng đấy, thưa giáo sư. Bây giờ ông có thể cho biết điều gì chi phối đầu tư tư nhân trong một nền kinh tế thị trường?
Trả lời: “Các kết luận của chúng ta có thể được tuyên bố dưới một hình thức chung nhất… như sau: Sẽ không có sự tăng tỷ lệ đầu tư hơn nữa nếu tỷ lệ cao nhất của lãi suất của tất cả các tài sản hiện có bằng với tỷ lệ cao nhất của hiệu suất biên của tất cả tài sản, được đo lường về mặt tài sản mà tỷ lệ lãi suất là lớn nhất” (236).
Hỏi: Vâng, tôi hiểu… Một câu hỏi cuối cùng, thưa Giáo sư Keynes. Liệu mở rộng tiền tệ có gây ra một sự bùng nổ giả tạo?
Trả lời: “Ở điểm này chúng ta đang ở sâu dưới nước. Con vịt trời lặn xuống đáy – sâu đến mức nó có thể – và nhanh chóng nắm lấy cây rong, tảo và tất cả những rác ở dưới đó, và nó sẽ cần một con chó khôn ngoan đến phi thường lặn xuống kéo nó lên” (183).
Thậm chí Paul Samuelson, một người ủng hộ học thuyết của Keynes đã tuyên bố “Đó là một cuốn sách viết tệ, tổ chức kém; bất kỳ người thường nào bị đánh lừa bởi danh tiếng trước đây của tác giả, mua quyển sách, và bị lừa mất 5 xu. Nó không phù hợp với việc sử dụng trong lớp học. Lời cảm ơn của tác giả trong cuốn sách ngạo mạn, nóng nảy, khiêu khích và không khoáng đạt. Nó đầy những điều rối rắm hoặc sự lẫn lộn… Những cách nhìn hay trực giác sâu sắc chỉ nằm rải rác trong chuỗi đại số học buồn tẻ. Một định nghĩa rắc rối bất ngờ mở đường cho một độc tấu cuối cùng đáng nhớ. Khi người ta cuối cùng hiểu rõ được nó, phân tích của nó dường như là rõ ràng và mới mẻ. Tóm lại đó là một công trình thiên tài” (Samuelson 1947 [1946], 148-89).[6]
Và Paul Krugman viết rằng “Mặc dù cuốn Lý thuyết chung vẫn có giá trị đọc đi đọc lại”, ông thừa nhận rằng mình “gắng sức đọc” các phần của nó, và thấy rằng rất có ích khi miêu tả cuốn sách như “một bữa ăn bắt đầu bằng món khai vị ngon lành và kết thúc với món tráng miệng thú vị, nhưng món chính lại gồm món thịt khó nhằn” (Krugman 2006).
Cuốn Lý thuyết chung vẫn còn được in để bán, nhưng do các học trò của Keynes làm sáng tỏ thêm, đặc biệt là Alvin Hansen và Paul Samuelson, những người giải nghĩa những thuật ngữ chuyên môn rắc rối của Keynes, đã dịch nó sang một thứ ngôn ngữ tiếng Anh dễ hiểu và làm thay đổi cả giới kinh tế học.
Keynes trong chiến tranh
Khi ông hoàn thành cuốn Lý thuyết chung, tác phẩm chính cuối cùng của mình, Keynes đã ở tuổi 52, và ông đã ở đỉnh cao quyền lực của mình. Keynes không bao giờ là một học giả có tính sách vở và xa lánh như đồng nghiệp của ông ở Cambridge là Arthur Pigou hoặc Dennis Robertson. Ông là người trải đời, yêu cuộc sống giao lưu xã hội, thích gặp gỡ nhà văn và nghệ sỹ, và là người ham thích chơi bài, cò quay, và đầu cơ ở phố Lombard và phố Wall. Con người lôi cuốn của ông hấp dẫn những nhà lãnh đạo cao nhất của Chính phủ, những người muốn có sự tư vấn của ông. Ông là bậc thầy về văn viết và và là người phát ngôn thú vị thường xuyên xuất hiện trên đài BBC.
Sau khi bị bệnh tim năm 1937, Keynes phải đi chậm lại. Ông và vợ trở nên năng động trong việc quảng bá nghệ thuật và lập một nhà hát nghệ thuật ở Cambridge. Năm 1940, khi chiến tranh với Đức nổ ra, Keynes trở lại Bộ Tài chính làm cố vấn và viết một cuốn sách gây ảnh hưởng: Trả giá cho chiến tranh như thế nào [How to Pay for the War]. Ông gợi ý kiềm chế tiêu dùng và đầu tư, và một chương trình tiết kiệm bắt buộc như là một cách để giảm cầu và lạm phát.
Tháng 5 năm 1942, tên của Keynes được đệ trình lên nhà Vua, đề cử ông làm Nam tước Keynes xứ Tilton, và vào tháng 6 ông giữ một ghế trong Thượng viện Anh. Trong sinh nhật lần thứ 60 của mình, ông là Ủy viên Hội đồng quản lý cấp cao của Cambridge, một vị trí danh dự. Ông phát đạt nhờ địa vị cao.
Khi gần kết thúc cuộc chiến tranh, Keynes và vợ của ông đến nước Mỹ để giúp đàm phán một hiệp định tài chính quốc tế mới. Keynes là một trong những người xây dựng Hiệp định Bretton Woods, trong đó thiết lập một hệ thống tỷ giá hối đoái cố định dựa trên vàng và đồng đô la và thành lập Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới. Hai năm sau, ông chết do một cơn đau tim ở tuổi 62.
Sự coi thường của Keynes đối với Mác và chủ nghĩa Mác
Phê bình của Keynes về Adam Smith và học thuyết bàn tay vô hình
Keynes – người theo dị giáo, làm đảo lộn kinh tế học cổ điển
Keynes tuyên bố “Trong dài hạn tất cả chúng ta đều chết” nghĩa là gì?
Chủ nghĩa tư bản có bất ổn cố hữu?
Đổ lỗi cho ai? Các nhà đầu tư không hợp lý
Thủ phạm: Tiết kiệm không dành cho đầu tư
Một truyền thống chống tiết kiệm
Keynes tập trung vào chi tiêu như là thành phần chủ chốt
Cầu tạo ra cung cho nó
Đưa G vào phương trình
Một vấn đề được xới lên: Keynes ủng hộ một chính sách tài khóa chủ động
Keynes thích các công trình công cộng hơn là lạm phát tiền
Số nhân tạo ra toàn dụng lao động như thế nào?
Keynes đưa ra một giả định có hại
Keynes đưa ra một biện pháp quyết liệt để ổn định hóa chủ nghĩa tư bản
Xem toàn bộ nội dung văn bản tại đây: John Maynard Keynes.pdf
[1] Dự đoán này lấy từ một lá thư của Alfred Marshall gửi một đồng nghiệp tại Đại học Cambridge, Giáo sư C.R. Fay, viết ngày 23/2/1915. Ông không đề cập đến Keynes như là người khởi xướng của cuộc cách mạng này, nhưng Marshall đưa ra quan điểm tán đồng đối với sinh viên của mình. Xem Pigou (1925, 489-90).
[2] Cùng với Keynes là sự xuất hiện việc phân chia “kinh tế học vĩ mô” nghiên cứu các tập hợp kinh tế như mức giá, cung tiền, và tổng sản sẩm quốc nội, và “kinh tế học vi mô”, lý thuyết về hành vi của cá nhân và doanh nghiệp. Paul Samuelson, người không sử dụng thuật ngữ này trong lần xuất bản đầu tiên cuốn giáo trình của ông, Kinh tế học (1948), nói rằng sự khác biệt giữa “vi mô” và “vĩ mô” quay trở lại với các nhà toán kinh tế Ragnar Frisch và Jan Tinbergen, người giành giải thưởng Nobel đầu tiên trong kinh tế học. Nhưng Roger Gar lưu ý rằng các nhà kinh tế học người Áo Eugen Böhm-Bawerk viết câu này vào tháng 1 năm 1891: “Một người không thể không nghiên cứu thế giới vi mô nếu muốn hiểu đúng vĩ mô của một nước phát triển” (Böhm-Bawerk 1962: 117).
[3] Một trong những điều lập dị của Keynes là sự ám ảnh của ông về bàn tay con người. Ông đã nghiên cứu suốt đời về các kích thước và hình dạng của bàn tay, mà ông coi đó là đầu mối chính thể hiện tính cách. Ông rất yêu thích xem tướng tay—đọc tính cách một người qua sự thể hiện của bàn tay— ông có những bản khuôn bàn tay của ông và vợ, và ông thậm chí còn nói về việc làm một bộ sưu tập bản khuôn bàn tay của những người bạn của ông (Harrod 1951:20). Bất cứ khi nào gặp một đồng nghiệp, một nhà chính trị hoặc một người lạ, Keynes tập trung ngay lập tức vào bàn tay, thường có sự đánh giá nhanh về tính cách của người đó. Trong cuộc gặp với Tổng thống Woodrow Wilson tại hội nghị Hiệp ước Versailles, ông nói rằng tay của tổng thống, “mặc dù có năng lực và khá mạnh mẽ, vẫn thiếu sự nhạy cảm và khéo léo” (Keynes 1920:40). Cũng tại hội nghị này, Keynes thể hiện sự thất vọng rằng Tổng thống Pháp Georges Clemenceau lại đeo găng tay (20-21). (Không ngạc nhiên là Keynes lại không thích học thuyết bàn tay vô hình của Adam Smith). Trong cuộc gặp với Tổng thống Franklin D. Roosevelt lần đầu tiên năm 1934, Keynes quá quan tâm đến việc xem xét đôi bàn tay của vị Tổng thống này đến nỗi ông nói rằng “hầu như tôi không biết mình đã nói gì về bạc, về ngân sách cân bằng và về các công trình công cộng”. Theo như báo cáo, Roosevelt không mấy ấn tượng với Keynes, và Keynes thì cũng thất vọng với Roosevelt. Phân tích bàn tay của Franklin D. Roosevelt: “Chắc chắn và khá mạnh mẽ, nhưng không thông minh hay khéo léo, các móng tay tròn, hơi ngắn giống như các móng ở cuối ngón tay doanh nhân” (Harrod 1951:20).
[4] Trong một bài phê bình sai lầm có tên Nền hòa bình tàn bạo hay hậu quả kinh tế của Keynes, nhà kinh tế học Pháp Etienne de Mantoux sau đó đã đổ lỗi rằng Keynes đã làm nảy sinh Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Theo Mantoux, Keynes đánh giá rất thấp khả năng nước Đức trả bồi thường chiến tranh và thuyết phục thế giới rằng Hiệp ước Hòa bình Versailles đã đè bẹp nước Đức, và do vậy dù thế nào đi nữa mối đe dọa của Đảng quốc xã là không đáng kể. Khó tưởng tượng được một sự giải thích ngang xương hơn về cuốn sách của Keynes. Xem Mantoux (1952).
[5] Một số người theo học thuyết kinh tế của Keynes như Charles Hession và John Kenneth Galbraith tuyên bố rõ ràng rằng tiêu đề chính xác là Lý thuyết chung về lãi suất việc làm và tiền tệ, không có dấu phẩy. Đúng ra là không có dấu phẩy bên bìa của bản gốc, nhưng ở phần lời giới thiệu, Keynes thêm dấu phẩy đằng sau từ “việc làm”.
[6] Nhà viết tiểu sử Charles Hession dựng lên một giả định mới lạ rằng những ý tưởng cách mạng và cảm hứng sáng tạo của Keynes là kết quả của nền tảng lưỡng tính của ông, bao gồm “lý trí của nam tính và trí tưởng tượng của nữ tính” (Hession 1984: 107, 17-18). Skidelsky đồng tình “Thậm chí sự mâu thuẫn giới tính của ông góp một phần làm sâu sắc hơn tầm nhìn của ông” (1992: 537). Nhưng tại sao trực giác và sự sáng tạo là chỉ có ở nữ tính, còn lý trí và lô-gíc lại chỉ có ở nam tính?
[efb_likebox fanpage_url=”DAnghiencuuquocte” box_width=”420″ box_height=”” locale=”en_US” responsive=”0″ show_faces=”1″ show_stream=”0″ hide_cover=”0″ small_header=”0″ hide_cta=”0″ ]