#80 – Bước ngoặt trong kinh tế học thế kỷ 20

Print Friendly, PDF & Email

Nguồn: Mark Skousen (2007). “A Turning Point in Twentieth-Century Economics” in M. Skousen, The Big Three in Economics: Adam Smith, Karl Marx, And John Maynard Keynes (New York: M.E.Sharpe), pp. 163-190.

Biên dịch & Hiệu đính: Nguyễn Hoàng Hà

Bài liên quan:  Các chương khác của cuốn The Big Three in Economics

Kinh tế học Keynes là … đòn chí mạng nhất mà quyền lực của kinh tế học chính thống phải hứng chịu

– W.H. Hutt (1979,12)

Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, cuộc cách mạng Keynes đã càn quét qua toàn bộ giới kinh tế học. Đã có hai nhân tố tạo ra bầu không khí sôi sục này. Thứ nhất, ảnh hưởng sâu sắc và rộng lớn của cuộc đại khủng hoảng dường như đã chứng minh sự có lý của quan điểm Keynes – Mác khi cho rằng bản thân chủ nghĩa tư bản thị trường vốn dĩ bất ổn và rằng thị trường có thể bị sa lầy tại mức cân bằng thất nghiệp một cách vô hạn định.

Các nhà lịch sử kinh tế nhận thấy rằng chỉ có các chính phủ toàn trị tại Đức, Italy và Liên Xô là tỏ ra có tiến bộ trong việc giải quyết tình trạng thất nghiệp trong những năm 1930. Thật ngạc nhiên, trong Lời giới thiệu phiên bản tiếng Đức của Lý thuyết chung, chính Keynes thừa nhận rằng học thuyết của ông “được dễ dàng ứng dụng hơn trong môi trường nhà nước toàn trị so với việc áp dụng lý thuyết sản xuất và phân phối sản phẩm được sản xuất ra trong môi trường tự do cạnh tranh và sự tự do kinh tế trên phạm vi rộng lớn (1973a [1936], xxvi).

Yếu tố thứ hai là Chiến tranh thế giới lần thứ hai đã xảy ra ngay sau khi Lý thuyết chung được xuất bản, đã đưa ra những minh chứng thực tế mạnh mẽ đối với các chế định chính sách của Keynes. Chi tiêu chính phủ và thâm hụt tài chính đã tăng lên đột ngột trong suốt Chiến tranh thế giới lần thứ hai, thất nghiệp biến mất, và sản lượng của nền kinh tế tăng mạnh. Chiến tranh là “có lợi” đối với nền kinh tế, đúng như Keynes đã dự đoán (1973a [1936], 129). Như nhà sử học Robert M. Collins đã viết, “Chiến tranh thế giới lần thứ hai đã tạo bước thành công cho học thuyết Keynes với những bằng chứng đầy sức thuyết phục về sự hiệu quả trong chi tiêu của chính phủ với một quy mô khổng lồ” (1981, 12). Đoạn trích sau đây từ một cuốn sách giáo khoa phổ biến, đã nhắc lại những gì các cuốn giáo khoa khác từng đề cập trong thời kỳ hậu chiến: “Một khi chính phủ chi tiêu thật lớn phục vụ cho chiến tranh vào những năm 1940, thu nhập sẽ phản ứng nhanh chóng và thất nghiệp sẽ biến mất. Chi tiêu chính phủ cho hàng hoá và dịch vụ ở mức thấp hơn 15% GNP trong suốt những năm 1930 đã tăng lên 46% vào năm 1944, trong khi đó thất nghiệp của lực lượng lao động dân sự đạt mức thấp kỷ lục là 1,2% (Lipsey, Steiner, and Purvis 1987, 573).

Paul Samuelson nâng tầm Giao điểm Keynes (Keynes Cross)

Như đã đề cập trước đó, Keynes mất vào năm 1946, ngay sau khi cuộc chiến tranh kết thúc. Sự nghiệp của ông cần phải được các học trò tiếp tục gánh vác và tạo ra một “kinh tế học mới”. Thật may mắn cho Keynes là đã có một nhà kinh tế học trẻ tuổi tài năng sẵn sàng tiếp bước sự nghiệp của ông. Đó là Paul Samuelson và chính ông là người đã viết một cuốn sách giáo khoa có ảnh hưởng rất lớn đến giới kinh tế không chỉ trong một thế hệ.

Đấy là năm 1948, một trong những năm bước ngoặt ngẫu nhiên nổi lên nhiều vấn đề về kinh tế học. Bạn có nhớ đến năm 1776, năm 1848, và năm 1871 hay không? Vào đầu năm 1948, Ludwig von Mises, một người Áo lưu vong, sống tách biệt trong căn hộ của mình ở New York đã viết một bài báo ngắn mang tên “Biến đá thành bánh mì, sự kỳ diệu của học thuyết Keynes”, cho một tờ báo mang tính bảo thủ, Plain Talk. Ông có tuyên bố rất ấn tượng rằng: “Những gì đang xảy ra ở Mỹ là thất bại cuối cùng của chủ nghĩa Keynes. Không còn nghi ngờ gì nữa, công chúng Mỹ đang ngày càng xa dần các quan điểm và khẩu hiệu của học thuyết Keynes. Uy tín của chúng đang dần giảm đi” (Mises 1980 [1952], 62).

Dường như đó là một điều mơ tưởng, nhưng Mises không thể đã hiểu sai thời đại đến vậy vào năm 1948. Chính vào năm đó, ngành kinh tế học mới của John Maynard Keynes đã được các học trò chào đón như là một làn sóng của tương lai và được coi là vị cứu tinh của chủ nghĩa tư bản. Thật vậy, hàng trăm bài viết và hàng chục các cuốn sách viết về Keynes và mô hình Keynes mới kể từ sau khi Keynes viết “Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ”.

Có một Cambridge khác

Năm 1948 cũng là năm Seymour E. Harris, trưởng khoa kinh tế học tại Havard, xuất bản một cuốn sách tựa đề Giải cứu chủ nghĩa tư bản Mỹ (Saving American Capitalism). Đây là sự tiếp nối của cuốn Kinh tế học mới (The New Economics) được ông viết vào năm 1947. Cả hai cuốn sách bán chạy này đã nhận đầy ắp những bài báo ca ngợi của các nhà kinh tế học nổi tiếng đang ra sức ủng hộ, khuếch trương kinh tế học mới của Keynes.

Nếu như Darwin chỉ có một người để truyền bá thuyết tiến hóa của mình thì Keynes lại có tới 3 người ở Mỹ là: Seymour Harris, Alvin Hansen, và Paul A. Samuelson. Họ đều đến từ “Cambridge khác” – Cambridge, Massachusetts. Cả Harris và Hansen đều là những nhà giáo Harvad bảo thủ chuyển sang ủng hộ chủ nghĩa Keynes và dành hết sức lực của mình để thuyết phục sinh viên và các đồng nghiệp về tính hiệu quả của học thuyết mới lạ này.

Sự tiến bộ của người Mỹ trong kinh tế học Keynes cho thấy một sự dịch chuyển rõ ràng nhưng không dễ phát hiện từ Châu Âu sang Thế giới Mới. Trước chiến tranh, London và Cambridge ở Vương quốc Anh đã định dạng thế giới kinh tế học. Sau chiến tranh, nơi hấp dẫn những sinh viên tốt nghiệp giỏi nhất, sáng giá nhất lại là Boston, Chicago, and Berkeley. Sinh viên từ khắp nơi trên thế giới đến học ở Mỹ, không chỉ trong lĩnh vực kinh tế học.

Năm của cuốn sách giáo khoa

Cuối cùng, năm 1948 là năm xuất hiện một cuốn sách giáo khoa mới mang tính đột phá, đến từ ngôi trường đại học láng giềng của Harvard, Học viện công nghệ Massachusetts (MIT). Nó được viết bởi Paul Samuelson “nhóc con xấc xược, bắng nhắng nhưng dám làm” (“brash whippersnapper go-getter”, theo như lời của chính của ông!). Cuốn Kinh tế học (Economics) có định mệnh trở thành cuốn sách thành công nhất từng được xuất bản trong bất cứ lĩnh vực nào. Nó đã được tái bản 16 lần với hơn 4 triệu bản in được dịch ra hơn 40 ngôn ngữ khác nhau trên thế giới. Không một cuốn sách nào khác có thể sánh được, kể cả những cuốn sách của Jean-Baptiste Say, John Stuart Mill, và Alfred Marshall. Kinh tế học của Samuelson đã hiện diện trong một nửa thế kỷ với bao biến động của nền kinh tế thế giới và giới kinh tế học: hoà bình và chiến tranh, bùng nổ và phá sản, lạm phát và giảm phát, đảng Cộng hoà và đảng Dân chủ, và một loạt những học thuyết kinh tế mới.

Sách của Samuelson phổ biến không chỉ vì nó được viết hay mà nó đã làm sáng tỏ và đơn giản hoá những vấn đề kinh tế học vĩ mô cơ bản của học thuyết Keynes thông qua việc sử dụng khéo léo các công thức đại số đơn giản và những đồ thị minh họa rõ ràng. Nó đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của giới kinh tế học và hàng năm bán được hàng trăm nghìn bản. Cứ 3 năm một lần, Samuelson lại chỉnh lý cuốn sách, tương tự như cách mà các nhà xuất bản sách ngày nay vẫn thường làm. Cuốn Kinh tế học đã bán được nhiều nhất vào năm 1964 với trên 440.000 bản. Thậm chí ngay một đại học bảo thủ như trường Đại học Brigham Young của tôi cũng sử dụng sách của Samuelson.

Đỉnh cao thành công của sự nghiệp

Samuelson nổi tiếng không chỉ bởi việc ông đã phổ cập hóa kinh tế học Keynes. Ông còn được coi là cha đẻ của lý thuyết kinh tế học vĩ mô hiện đại. Ông đã có rất nhiều đóng góp cho Toán kinh tế học thuần tuý. Chính bởi điều này mà ông vừa được tôn vinh và vừa bị chỉ trích. Được tôn vinh bởi ông đã làm cho kinh tế học trở thành một môn khoa học lô-gíc thuần tuý và bị chê trách bởi ông đã đẩy mô hình khuyết tật của Ricardo và phân tích cân bằng của Walras tới một mức thái quá, không có bất kỳ nghiên cứu thực chứng nào có thể hỗ trợ (xem chương 2 và chương 4).

Nhờ những công trình mang tính khoa học và phổ biến, Samuelson đã được cộng đồng học thuật trao tặng hầu như tất cả các giải thưởng. Ông là người Mỹ đầu tiên nhận giải Nobel kinh tế năm 1970. Ông được trao Huy chương John Bates Clark đầu tiên cho danh hiệu nhà kinh tế học dưới 40 tuổi sáng giá nhất, và ngoài ra, ông còn nhận được Huy chương Albert Einstein vào năm 1971. Thậm chí còn có một giải thưởng hằng năm mang tên ông, giải thưởng “Paul A. Samuelson” trao cho các công trình nghiên cứu được xuất bản trong lĩnh vực tài chính. Các bài báo của ông xuất hiện trên tất cả các tạp chí lớn (và rất nhiều tạp chí nhỏ). Ông được bầu làm chủ tịch Hiệp hội Kinh tế Mỹ (AEA), được nhận vô số học vị danh dự từ các trường đại học, và là chủ đề của rất nhiều tập sách do nhiều tác giả khác nhau cùng viết để chúc mừng, vinh danh một học giả với những bài luận về công trình nghiên cứu của học giả đó.

“Trẻ tuổi tài cao nhưng xấc xược”

Paul A. Samuelson sinh năm 1915 ở Gary, Bang Indiana trong một gia đình Do Thái, sau đó chuyển đến Chicago, nơi ông nhận bằng cử nhân của Đại học Chicago vào năm 1935 khi mới 20 tuổi. Chicago vào những năm 1930, như nó ngày nay, là thành quách cuối cùng của tư tưởng tự do kinh tế. Ngày nay, xen giữa những tư tưởng khác, tư tưởng tự do kinh tế này được kế tục bởi Frank Knight, Jacob Viner, và Henry Simons. Thầy giáo kinh tế học đầu tiên của Paul Samuelson là Aaron Director, có lẽ là người theo chủ nghĩa tự do nhiệt thành nhất trong khoa và sau này trở thành anh rể của Milton Friedman. Cả Friedman và George Stigler lúc đó đều là những sinh viên đã tốt nghiệp. Triết lý tự do kinh tế của Director đã thất bại trong việc lôi kéo được một con người cải cách như Samuelson, một kẻ dị giáo tài năng trong một tổ chức bảo thủ, và là người chịu ảnh hưởng lớn từ người cha theo trường phái “chủ nghĩa xã hội ôn hoà”. Hơn nữa, trong suốt thời kỳ suy thoái, hầu hết lãnh đạo của trường Chicago đều tán thành sự thâm hụt chi tiêu và các chính sách chủ động khác của chính phủ như là giải pháp tạm thời. Samuelson kế thừa và mang trong mình một khái niệm từ Chicago là chủ nghĩa tiền tệ. Tuy nhiên, khi bắt gặp Keynes, ông đã gọi mình là một “con lừa” vì vội tin tưởng vào khái niệm đó (Samuelson 1968, 1).

Alvin Hansen đổi hướng trở thành Keynes của nước Mỹ

Sau Chicago, Samuelson lập tức đến Harvard, nơi ông đã chứng kiến một sự chuyển đổi đáng ngạc nhiên. Giáo viên của ông, Alvin Hansen (1887–1975), một nhà kinh tế học cổ điển kỳ cựu, đã chuyển hướng theo chủ nghĩa Keynes. Lúc đầu, hầu hết các nhà kinh tế học lớn tuổi bác bỏ quan điểm dị giáo của Keynes, kể cả Hansen ở trường Đại học Minnesota. Ngoại lệ chỉ có Marriner Eccles, giám đốc ngân hàng Uhta và sau này trở thành giám đốc Dự trữ Liên bang cùng Lauchlin Currie, phụ tá kinh tế của Roosevelt, là những người ủng hộ học thuyết Keynes mạnh mẽ.

Sau đó, vào mùa thu năm 1937, Hansen chuyển sang Harvard và đột nhiên, vào độ tuổi 50, ông nhận ra bản chất mang tính cách mạng của Keynes. Ông thẳng thắn ủng hộ học thuyết Keynes và trở thành “Keynes của nước Mỹ”. Cuộc hội thảo về chính sách tài khoá của ông đã thu hút rất nhiều sinh viên nhiệt huyết, trong đó có Samuelson, và đã thuyết phục được rất nhiều đồng nghiệp, bao gồm Seymour Harris. Học thuyết Keynes phải được chuyển sang ngôn ngữ tiếng Anh giản đơn với các đồ thị dễ hiểu và toán học, và Hansen đã là người thông ngôn chính, từ Chính sách tài khóa và Chu kỳ kinh tế (Fiscal Policy and Business Cycles) (1941) đến Sách hướng dẫn về Keynes (A Guide to Keynes) (1953). Hansen cũng đã vận động ủng hộ cho Đạo Luật Việc làm năm 1946. Theo Mark Blaug, “Alvin Hansen đã có công sức hơn bất kỳ một nhà kinh tế nào trong việc đưa Cuộc cách mạng học thuyết Keynes đến với nước Mỹ” (Blaug 1985, 79).

“Luận thuyết đình trệ” làm mất uy tín của Hansen và hầu như phá hủy thanh danh của Samuelson

Tuy nhiên, Hansen đã rơi vào một cái bẫy. Ông đã phát triển một cách có lô-gíc lý thuyết cân bằng thất nghiệp của Keynes thành một “luận thuyết đình trệ kinh niên” (Chính bản thân Keynes đã tin rằng tình trạng những năm 1930 có thể tồn tại vô hạn định). Trong bài phát biểu nhậm chức chủ tịch trước Hiệp hội Kinh tế Mỹ năm 1937, Hansen đã liều lĩnh tuyên bố rằng nước Mỹ đang bị sa lầy trong một “nền kinh tế mãn phát triển” (mature economy), là một vết lún sâu không thể thoát được do sự thiếu đổi mới về công nghệ, do giới hạn khả năng sản xuất của Mỹ, và do tốc độ tăng dân số. Những luận thuyết về sự đình trệ của ông đã bị George Terborgh công kích mãnh liệt trong cuốn Con ba bị của nền kinh tế mãn phát triển (The Bogey of Economic Maturity) (1945) cũng như bị chứng minh là hoàn toàn sai bởi sự phục hồi mạnh mẽ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Nỗi hổ thẹn về dự báo không thành công này đã ám ảnh Hansen trong suốt cuộc đời của ông.

Chịu ảnh hưởng mạnh từ luận thuyết đình trệ của Hansen, Paul Samuelson gần như chịu chung một số phận. Năm 1943, ông viết một bài cảnh báo nếu chính phủ không hành động mạnh mẽ sau khi chiến tranh kết thúc thì “sẽ mở ra một thời kỳ thất nghiệp và sự chệch hướng trong công nghiệp tồi tệ nhất mà bất kỳ nền kinh tế nào đã từng phải đối mặt”. Trong phần hai của bài viết được đăng trên tạp chí Nền cộng hòa mới (The New Republic) vào mùa thu 1944, Samuelson đã dự báo một sự lặp lại của cuộc đại suy thoái những năm 1930 (Sobel 1980, 101–02).

Mặc dù Samuelson cũng như hầu hết các nhà kinh tế học theo trường phái Keynes bị chứng minh là dự báo thiếu chính xác về thời kỳ hậu chiến, nhưng ông dần dần bắt đầu thể hiện sự lạc quan mạnh mẽ về một nền kinh tế Mỹ trong lần tái bản kế tiếp của cuốn sách giáo khoa. “Nếu gạt chiến tranh sang một bên, nền kinh tế hỗn hợp của chúng ta có một tương lai tốt đẹp đang đón chờ” (1964, 809).

Samuelson đã nhận ra đó là một thời kỳ tuyệt vời để trở thành một nhà kinh tế học: “Được sinh ra để trở thành một nhà kinh tế trước năm 1936 là một đặc ân – đúng vậy. Nhưng đừng sinh ra trước đó quá lâu” (Harris 1947, 145). Ông sử dụng những dòng quen thuộc sau từ Khúc dạo đầu (The Prelude) của William Wordsworth (Quyển 11, dòng 108-9, đã được trích dẫn trước đó trong chương 2):

Còn gì vui bằng được sống mỗi sớm mai thức dậy

Nhưng Thiên đường thực sự chỉ khi ta thanh xuân!

(Bliss was it in that dawn to be alive,

But to be young was very Heaven!)

Vào năm 1941, Samuelson hoàn thành luận án và đã giành được giải thưởng David A. Wells. (Nó đã được xuất bản thành sách vào năm 1947 với tiêu đề Cơ sở của phân tích kinh tế – Foundations of Economic Analysis). Ở công trình nghiên cứu này, Samuelson đã tuyệt giao với lý thuyết của Alfred Marshall bằng việc khẳng định rằng toán học, chứ không phải cách biểu đạt văn chương, nên là cách giải thích cơ bản cho kinh tế học.

Nhưng sau khi tốt nghiệp, Samuelson đã nhận ra thiên đường không phải lúc nào cũng ngọt ngào. Ông bày tỏ mong muốn được giảng dạy tại Harvard, nhưng chính sự hồ hởi và ngạo mạn của tuổi trẻ và nguồn gốc Do thái đã chống lại ông. Thái độ tự mãn của ông khiến cho vị trưởng khoa Harold Hitchings Burbank tức giận trong thời gian dài, do đó Samuelson chỉ được mời giữ vị trí trợ giảng trong khoa. Để được ở lại Cambridge, ông chấp nhận một vị trí vô danh ở Khoa kinh tế học của Học viện công nghệ Massachusetts.

Harvard đã sớm phải hối tiếc về sai lầm này. Vào năm 1947, Samuelson được trao tặng huy chương John Bates Clark lần đầu tiên cho một nhà kinh tế học trẻ tuổi, sáng giá nhất; ông đã được trường cho hưởng chế độ giáo sư đầy đủ và MIT được xếp hạng là một trong những khoa kinh tế học tốt nhất của quốc gia. Samuelson lúc đó mới chỉ 32 tuổi! Một năm sau, ông đã tạo ra một tiếng vang lớn khiến mọi khoa kinh tế học phải thèm khát: ấn bản đầu tiên của Kinh tế học, bản kinh thánh mới của Samuelson về kinh tế vĩ mô. Giáo sư Otto Eckstein ở Harvard đã nhận xét, “Harvard đã mất đi nhà kinh tế học xuất sắc nhất thế hệ” (Sobel 1980, 101).

Hoàn cảnh ra đời cuốn sách giáo khoa nổi tiếng của Samuelson: “Một Cơ hội đặc biệt”

Trong đầu thời kỳ hậu chiến, các sinh viên Harvard nghiên cứu kinh tế học từ những cuốn sách cũ kỹ không nói gì về chiến tranh và đề cập rất ít về kinh tế học mới của Keynes. Samuelson bình luận rằng, “Sinh viên tại Harvard và MIT thường có vẻ mặt đờ đẫn”. Trưởng khoa đã đề nghị ông viết một cuốn giáo trình mới. Sau ba năm miệt mài công việc suốt ngày đêm và hy sinh cả kỳ nghỉ hè (“sự đau khổ nhịn chơi tennis của tôi”), cuốn Kinh tế học đã được ra đời.

Bị tấn công từ cả hai phía

Ấn bản đầu tiên, do Nhà xuất bản Mcgraw-Hill phát hành, đã bán trên 120.000 bản in trong năm 1950 và vẫn tiếp tục bán chạy. Nhưng cuốn sách sớm bị tấn công từ cả hai phía; một mặt bị cộng đồng kinh doanh phàn nàn về tính định hướng xã hội chủ nghĩa và mặt khác bị những người theo chủ nghĩa Mác phàn nàn về tính định hướng tư bản chủ nghĩa. William F. Buckley, Jr., đã bày tỏ sự phản đối trong cuốn Chúa và con người tại Yale (God and Man at Yale) (1951) khi cho rằng cuốn sách giáo khoa của Samuelson chống lại kinh doanh và ủng hộ chính phủ. Một tổ chức có tên gọi Quỹ Veritas đã xuất bản cuốn Keynes tại Harvard (Keynes at Harvard) và đồng nhất hóa chủ nghĩa Keynes với chủ nghĩa xã hội Fabian, chủ nghĩa Marx, và chủ nghĩa phát xít. Mặt khác, các nhà theo chủ nghĩa Mác cảm thấy bị mếch lòng khi Samuelson khẳng định những dự đoán của Mác về hệ thống tư bản chủ nghĩa là “sai lầm chết người”. Một cuốn sách phê bình dầy và gồm 2 tập với tiêu đề Chống Samuelson (Anti-Samuelson) (1997) đã được xuất bản thể hiện quan điểm chống lại Samuelson và giới thiệu chủ nghĩa Mác đến các sinh viên. Trong thời kỳ Stalin, Samuelson đã rất hài lòng khi biết rằng cuốn Kinh tế học được lưu giữ tại một kệ sách đặc biệt trong thư viện và cùng với những cuốn sách về tình dục bị cấm đối với tất cả mọi người, chỉ trừ một số người có giấy phép được đọc. Samuelson đã đáp trả lại rằng “Sự thật là, khi má của bạn bị tát từ bên Hữu, nỗi đau có thể được làm dịu bớt một phần bởi cái tát từ bên Tả” (1998, xxvi). Trong lúc đó, Samuelson đã đề xuất ra một “thương hiệu” kinh tế học dường như có sự cân bằng hơn và nhận được ủng hộ của giới nghiên cứu chính thống. Một mặt ông ủng hộ sự can thiệp sâu để “ổn định” nền kinh tế ở tầm vĩ mô, mặt khác ông lại khuyến khích sự tự do kinh tế ở tầm vi mô, ủng hộ tự do thương mại, cạnh tranh và thị trường tự do trong ngành nông nghiệp.

Đỉnh cao của kinh tế học Keynes

Thành công của kinh tế học Keynes và cuốn sách giáo khoa của Samuelson đạt đỉnh điểm vào đầu những năm 1960. Vị giáo sư ở MIT đã trở thành Chủ tịch AEA năm 1961 cùng với năm mà John F. Kennedy nhậm chức tổng thống. Cùng với Walter Heller và các nhà kinh tế học hàng đầu theo trường phái Keynes, Samuelson cũng là một nhà cố vấn thân cận của tổng thống Kennedy và giúp tham mưu để Quốc hội thông qua cắt giảm thuế mà Kenedy đưa ra năm 1964, một chương trình dựa trên học thuyết Keynes được thiết kế để khích thích tăng trưởng kinh tế bằng việc chấp nhận thâm hụt tài chính có tính toán thận trọng. Nó dường như đã có tác dụng khi nền kinh tế có sự phát triển tốt vào giữa thập kỷ 1960. Vào thời gian đó, sách của Samuelson rất thịnh hành đối với giới kinh tế học khi bán hơn 250.000 bản in một năm. Và chỉ một năm sau khi bắt đầu có giải Nobel Kinh tế (1969) do Ngân hàng Thụy Điển trao tặng, Paul A. Samuelson đã được đón nhận vinh dự này.

Lượng tiêu thụ bản in sách giáo khoa của Samuelson đã giảm xuống vì sự khủng hoảng và siêu lạm phát vào những năm 1970 và ngày nay, sau một nửa thế kỷ kể từ khi ấn bản đầu tiên được phát hành, nó đã không còn ở vị trí dẫn đầu những cuốn sách thịnh hành nữa. Tuy nhiên, những nhà kinh tế học mới, có triển vọng (đặc biệt, cuốn giáo trình của Campbell Mcconnell là một trong những cuốn sách bán chạy nhất trong nhiều năm) gần như được xem là bản sao của Samuelson. Từ năm 1985, giáo sư William D. Nordhaus ở Yale trở thành đồng tác giả cho những lần tái bản của cuốn Kinh tế học và lúc này màu tóc của Samuelson ngả từ vàng sang nâu rồi hoa râm vào những năm xế chiều trong cuộc đời của ông. Tuy nhiên, một người hâm mộ đã viết về ông: “Trí nhớ của ông làm cho người ta phải ngạc nhiên ngay cả khi ông đãng trí” (Elzinga 1992, 878).

Hình 6.1: Giao điểm Keynes trong Quyết định Tổng thu nhập Quốc gia: Tiết kiệm và Đầu tư quyết định đến Thu nhập như thế nào

(Vui lòng download file để xem hình)

Nguồn: Samuelson (1948:259). Được in dưới sự cho phép của NXB McGraw-Hill.

Mục đích của Samuelson: Nâng tầm Giao điểm Keynes trở thành một đỉnh cao trong ngôi nhà của kinh tế học

Paul Samuelson đang cố gắng để đạt được điều gì? Thực tế là không có trường phái Samuelson trong kinh tế học; ông coi mình là “người theo chuyên môn tổng quát cuối cùng trong kinh tế học” (Vậy còn Kenneth Boulding thì sao?). Đầu tiên và quan trọng nhất, ý định của vị giáo sư MIT là giới thiệu học thuyết Keynes đến các lớp học: các khái niệm số nhân, xu hướng tiêu dùng, nghịch lý của tiết kiệm, chính sách tài khóa ngược chiều, tài khoản thu nhập quốc dân, và C + I + G đều là những chủ đề mới được giới thiệu trong ấn bản đầu tiên của cuốn Kinh tế học vào năm 1948. Chỉ có John Maynard Keynes được vinh danh với vài nét về tiểu sử trong những lần ấn bản đầu và chỉ có Keynes chứ không phải là Adam Smith hay Các Mác được gán cho biệt danh “thiên tài toàn diện” (Samuelson 1948, 253).

Biểu đồ thu nhập – tiêu dùng “giao điểm Keynes” được phát minh bởi Samuelson (hình 6.1), xuất hiện trong trang bìa của 3 lần ấn bản đầu tiên. Giao điểm Keynes kết hợp tất cả các thành tố của lý thuyết “chung” mới. Biểu đồ ở hình 6.1 cho thấy tiết kiệm (S) tăng cùng với thu nhập quốc gia (NI). Thu nhập càng nhiều thì tiết kiệm càng tăng. Tuy nhiên, đầu tư (I) là tự định và độc lập với tiết kiệm. Theo học thuyết Keynes, đầu tư được ấn định ở mức không đổi bởi vì đầu tư thường thay đổi và biến động theo “cảm xúc khó lường” (animal spirits) và kỳ vọng của các nhà đầu tư và doanh nhân. Vì thế, kế hoạch đầu tư được thiết lập ở bất kỳ mức nào cũng không liên quan đến thu nhập. Mức cân bằng (M) được thiết lập tại điểm S = I, mà tại đó sẽ không đạt được mức thu nhập toàn dụng lao động (F). Vì vậy, Giao điểm Keynes phản ánh sự cân bằng ở tình trạng thiếu việc làm.

Mô hình cân bằng tĩnh thể hiện quan điểm của Samuelson (và Keynes) khi cho rằng chủ nghĩa tư bản vỗn dĩ không ổn định và có thể bị sa lầy vô hạn định tại điểm (M) ở dưới mức toàn dụng lao động. Không có “cơ chế tự động” đảm bảo cho toàn dụng lao động trong nền kinh tế tư bản (Samuelson và Nordhaus 1985, 139). Samuelson ví chủ nghĩa tư bản như một chiếc xe hơi thiếu một vô-lăng và thường trật ra khỏi đường và đổ sầm. Ông viết: “nền kinh tế tư nhân giống như một cỗ máy thiếu vô-lăng hay bộ điều khiển hiệu quả. Chính sách tài khóa mang tính bù đắp cố gắng đưa vào một bộ điều khiển hoặc một thiết bị kiểm soát ổn định nhiệt độ” (Samuelson 1948, 412). Krugman cũng so sánh nền kinh tế thị trường như một hệ thống cần một “máy phát điện mới” (Krugman 2006).

Số nhân hoạt động kỳ diệu như thế nào

Chính sách tài khóa có tác dụng bù đắp hoạt động như thế nào? Theo lý thuyết Keynes, nền kinh tế tăng trưởng và đạt được mức toàn dụng lao động bằng hai cách: Dịch chuyển đầu tư I lên trên hay dịch chuyển tiết kiệm S sang phải.

Trước hết, hãy nhìn vào đầu tư. Đường đầu tư I có thể được dịch hướng lên trên do niềm tin kinh doanh được khôi phục chủ yếu thông qua việc tăng chi tiêu của chính phủ hay cắt giảm thuế. Cả hai kỹ thuật này đều có một số nhân ảnh hưởng: 100 tỷ USD chi tiêu cho các chương trình hoặc hay từ việc cắt giảm thuế có thể tạo ra 400 tỷ USD thu nhập mới.

Hình 6.2: “Nghịch lý của Tiết kiệm” của Samuelson

(Vui lòng download file để xem hình)

Nguồn: Samuelson và Nordhaus (1989:184). Được in dưới sự cho phép của NXB McGraw-Hill

Nhưng theo Samuelson, dưới hệ thống học thuyết Keynes, chi tiêu chính phủ có số nhân cao hơn việc cắt giảm thuế. Tại sao? Bởi vì 100% của một chương trình liên bang được chi tiêu, trong khi chỉ một phần việc cắt giảm thuế được chi tiêu và một phần trong số đó sẽ được dành cho tiết kiệm. Samuelson gọi phát hiện này là “số nhân ngân sách cân bằng”. Vì vậy, chương trình chi tiêu mới của liên bang được ưa thích hơn so với việc cắt giảm thuế bởi theo học thuyết Keynes phía chi tiêu được đánh giá là một vũ khí có uy lực hơn để chống lại suy thoái hơn là cắt giảm thuế.

Nghịch lý tiết kiệm phủ định Adam Smith

Cách thứ hai để thoát khỏi suy thoái là tăng xu hướng tiêu dùng xã hội và điều này sẽ làm dịch chuyển đường tiết kiệm S sang bên phải.

Hãy nhớ rằng trong mô hình Keynes, nếu xã hội quyết định tiết kiệm nhiều hơn trong thời kỳ suy thoái kinh tế thì nó chỉ làm cho các vấn đề xấu hơn. Người tiêu dùng mua sắm ít hơn, nhà sản xuất sa thải công nhân, và cuối cùng các hộ gia đình tiết kiệm ít đi. Theo mô hình sơ thảo của học thuyết Keynes, việc tăng cung tiết kiệm không thể làm lãi suất giảm thấp hơn cũng như tạo ra sự khuyến khích đầu tư vì giả định lãi suất là cố định. Trong biểu đồ 6.1, tiết kiệm nhiều hơn có nghĩa là đường tiết kiệm S dịch chuyển về phía sau sang bên trái, và không có tác động làm tăng đầu tư I.

Samuelson gọi hiện tượng này là “Nghịch lý của tiết kiệm” (hình 6.2) – khi mong muốn tăng tiết kiệm lại dẫn đến giảm tổng mức tiết kiệm! Ông tuyên bố (1948, 271): “Trong điều kiện thất nghiệp, càng cố gắng tiết kiệm thì có thể dẫn tới kết quả là tiết kiệm được ít đi chứ không phải nhiều hơn”. Tất nhiên, Keynes đã nói một vấn đề gần như tương tự và còn hùng hồn hơn: “Chúng ta càng tỏ ra có đạo đức, càng cố gắng tiết kiệm, càng ngoan cố theo lý thuyết chính thống đối với tài chính quốc gia và tài chính cá nhân, thì thu nhập của chúng ta ắt sẽ phải giảm xuống nhiều hơn” (Keynes 1973a [1936], 111).

Samuelson rất vui với sự tấn công này vào lý thuyết chính thống của Adam Smith và Benjamin Franklin. Smith nhận ra tiết kiệm là một hành vi có đạo đức phổ biến, và ông viết “những gì là khôn ngoan trong hành vi của mọi gia đình riêng lẻ lại có thể trở nên hiếm hoi một cách nực cười trong một vương quốc vĩ đại (1965 [1776], 424). Franklin khuyên bảo tất cả những đứa trẻ rằng “1 đồng tiết kiệm được là 1 đồng kiếm được”. Nhưng Samuelson gọi suy nghĩ này là một “ngụy biện tổng thể” (fallacy of composition). Ông cũng cho rằng “điều gì tốt cho mỗi cá nhân không nhất thiết phải tốt cho tất cả mọi người”. Hơn nữa, “đạo đức cổ xưa của Franklin (tiết kiệm) lại có thể là những tội ác mới” (1948, 270). Như trong một cuốn sách ngày nay, “dù tiết kiệm có thể mở con đường đến giàu sang cho từng cá nhân, nhưng nếu một quốc gia đứng trên góc độ tổng thể quyết định tiết kiệm nhiều hơn thì kết quả có thể là một cuộc suy thoái và nghèo đói cho tất cả mọi người” (Baumol and Blinder 1988, 192).

Các nhà học thuyết Keynes từng tán đồng rằng tiết kiệm là một hành vi đạo đức trong thời kỳ toàn dụng lao động, nhưng Samuelson đã thuyết phục rằng điều này hiếm khi xảy ra. Ông viết: “Trường hợp toàn dụng lao động và lạm phát chỉ thi thoảng xảy ra trong lịch sử phát triển gần đây của chúng ta. Phần lớn trong thời gian đó là sự lãng phí nguồn lực, thất nghiệp, thiếu cầu, thiếu đầu tư và thiếu sức mua” (1948, 271). Đoạn này được giữ nguyên và được trích dẫn liên tục trong 11 ấn bản đầu tiên của cuốn sách giáo khoa.[1]

Tiết kiệm là sự rò rỉ

Hưởng ứng Keynes, Samuelson tuyên chiến đối với tiết kiệm không dành cho đầu tư, vốn có thể bị “rò rỉ” ra khỏi hệ thống và trở thành một “khuyết tật của xã hội” (1948, 253). Ông đã xây dựng một sơ đồ (xem Hình 6.3) phân tách tiết kiệm từ đầu tư. Sơ đồ này cho thấy tiết kiệm bị rò rỉ thoát ra khỏi hệ thống, không được kết nối với tay bơm thủy lực dòng đầu tư ở bên trên. (Sơ đồ này đã được những người quan sát gọi là mô hình “thủy lực chủ nghĩa Keynes”, nhấn mạnh vào sự mồi nước cho máy bơm thông qua chi tiêu chính phủ.)

Hình 6.3: Tiết kiệm bị rò rỉ khỏi hệ thống trong khi dòng đầu tư được bơm cho toàn nền kinh tế

(Vui lòng download file để xem hình)

Nguồn: Samuelson (1948: 264). Được in dưới sự cho phép của NXB McGraw-Hill

Có phải tiêu dùng quan trọng hơn tiết kiệm?

Mô hình Keynes đưa ra một kết luận kỳ quặc rằng tiêu dùng sinh lợi nhiều hơn tiết kiệm. Như đã đề cập ở trên, trong mô hình Giao điểm Keynes, sự tăng lên trong “xu hướng tiêu dùng” (tỷ lệ tiết kiệm thấp hơn) dẫn đến sự toàn dụng lao động. Keynes tán thành “tất cả các kiểu chính sách nhằm tăng xu hướng tiêu dùng”, bao gồm thuế trưng thu thừa kế và tái phân phối của cải có lợi cho nhóm thu nhập thấp, vốn là những người có tỉ lệ tiêu dùng trên tổng thu nhập cao hơn so với nhóm giàu có (1973a [1936], 325). Nhà kinh tế học Canada Lorie Tarshis, trong lần đầu viết một cuốn sách giáo khoa theo học thuyết Keynes đã cảnh báo rằng một tỷ lệ tiết kiệm cao là “một trong những nguồn khó khăn chính cho chúng ta” và một trong những mục tiêu của chính phủ liên bang là nên “giảm việc khuyến khích tiết kiệm” (Tarshis 1947, 521–12).

Nhà kinh tế học trường phái Keynes là Hyman Minsky đã khẳng định lại cách tiếp cận phi chính thống này khi ông nói rằng “trọng tâm chính sách nên chuyển từ khuyến khích tăng trưởng thông qua đầu tư sang việc đạt được toàn dụng lao động thông qua sản xuất tiêu dùng” (Minsky 1982, 113). Dĩ nhiên tất cả các lý thuyết này của trường phái Keynes đã đi ngược với lý thuyết tăng trưởng cổ điển truyền thống khi cho rằng một mức tiết kiệm cao là thành tố chính cho tăng trưởng kinh tế.

Phải chăng chủ nghĩa Keynes trung lập về chính trị?

Samuelson lập luận rằng “lý thuyết xác định thu nhập” của học thuyết Keynes là “trung lập” về mặt chính trị. Ví dụ, “nó có thể được sử dụng tốt để bảo vệ hoặc hạn chế doanh nghiệp tư nhân cũng như để chỉ trích hay biện hộ cho sự can thiệp tài khóa của chính phủ” (1984, 253). Nhưng bằng chứng thực tế đã chống lại khẳng định này.

Ví dụ, số nhân ngân sách cân bằng (Samuelson xem nó là một trong “những khám phá khoa học” tâm đắc nhất của mình) ủng hộ các chương trình chi tiêu của chính phủ hơn so với cắt giảm thuế trong vai trò một chính sách ngược chiều. Theo Samuelson, thuế lũy tiến (áp dụng mức thuế cao hơn đối với những người giàu) là một phương thức tái phân phối “có lợi” tác động lên nền kinh tế: “Trong phạm vi mà đồng đô-la được lấy từ những người giàu thích tiết kiệm hơn là từ những người người sẵn sàng chi tiêu thì thuế lũy tiến có xu hướng giữ sức mua và việc làm ở một mức cao” (1948, 174).

Samuelson cũng tán thành thuế an sinh xã hội, trợ cấp nông nghiệp, trợ cấp thất nghiệp, và các trợ cấp khác của nhà nước phúc lợi như “người thiết lập sự ổn định” trong nền kinh tế. Mục chỉ dẫn (index) trong giáo trình của Samuelson luôn liệt kê “các thất bại của thị trường” (bao gồm cạnh tranh không hoàn hảo, ảnh hưởng ngoại lai, bất bình đẳng về của cải, quyền lực độc quyền, và hàng hóa công) nhưng không hề có “thất bại của chính phủ”. Đó là bằng chứng mạnh mẽ cho thấy sự thiên kiến của ông.

Người biện hộ đối với nợ quốc gia

Những nhà phê bình bắt đầu một cuộc chiến trường kỳ chống lại kinh tế học Keynes

Hiệu ứng Pigou: Cuộc tấn công đầu tiên

Số liệu về tăng trưởng mâu thuẫn với học thuyết chống tiết kiệm

Tiết kiệm cũng có số nhân!

Một thiếu sót lớn trong mô hình Keynes

Nền kinh tế thực sự vận hành như thế nào

Một ví dụ: xây một cây cầu

Sự quay trở lại của Quy luật Say: Sản xuất quan trọng hơn nhiều so với tiêu dùng 

Sự báo ứng của Keynes

Lạm phát những năm 1970: Kinh tế học Keynes ở thế phòng thủ

Kinh tế học Keynes quay trở lại: Tổng cung và tổng cầu được thiết lập

Kinh tế học hậu Keynes ngày nay

Xem toàn bộ nội dung văn bản tại đây: Buoc ngoat trong kinh te hoc the ky 20.pdf


[1] Thật bất ngờ, gần đây Samuelson phản đối khẩu hiệu “chống tiết kiệm của học thuyết Keynes” (Samuelson 1997). Sau khi biết Martin Feldstein công khai than phiền rằng các nhà kinh tế học tại Harvard cũng tấn công vào chủ đề tiết kiệm trong thời ông này đi học, Samuelson cho biết ông thường xuyên xuất hiện trước Quốc hội Hòa Kỳ để thúc đẩy tiết kiệm và đầu tư nhiều hơn đồng thời tiêu dùng giảm xuống. Phản ứng của tôi là Tại sao ông ấy không nói như vậy vào trong cuốn sách giáo khoa của mình?