Tác giả: Lê Hồng Hiệp
Sự kiện Trung Quốc hạ đặt Giàn khoan Hải dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam cùng với những hành động hiếu chiến đi kèm đã làm biến đổi quan hệ Việt – Trung nói riêng và môi trường chiến lược của Việt Nam nói chung. Theo đó, đã đến lúc Việt Nam cần đánh giá lại bản chất quan hệ Việt- Trung cũng như định hướng chính sách đối ngoại để ứng phó với những thay đổi trong quan hệ song phương cũng như môi trường chiến lược.
Cụ thể, gần đây có một số các nhà quan sát đã lập luận rằng trong tình thế hiện nay, đã đến lúc Việt Nam cần phải từ bỏ chính sách đối ngoại trung lập, không liên kết để chuyển sang chính sách chính trị liên minh, nhằm nâng cao vị thế chiến lược và khả năng mặc cả với Trung Quốc, qua đó bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia của mình. Bài bình luận này sẽ đi sâu thảo luận một số khía cạnh của vấn đề này, đặc biệt là lý do tại sao Việt Nam cần theo đuổi chính trị liên minh, những thách thức mà Việt Nam phải đối mặt khi đi theo phương hướng đó, cũng như gợi ý một số bước đi cụ thể nhằm hiện thực hóa lựa chọn này.
Chiến lược Trung Quốc của Việt Nam từ sau bình thường hóa
Kể từ sau khi bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc vào tháng 11/1991 cho đến những năm gần đây Việt Nam nhìn chung đã duy trì được một chiến lược Trung Quốc khéo léo và phù hợp nhằm thu được lợi ích tối đa từ mối quan hệ với Trung Quốc. Chiến lược này kết hợp nhiều cách tiếp cận khác nhau theo phương châm “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”, qua đó vừa coi Trung Quốc là một “đối tác” mà Việt Nam cần tranh thủ hợp tác, vừa là một “đối tượng” cần đấu tranh, đặc biệt là trên hồ sơ tranh chấp Biển Đông. Cụ thể, chiến lược này dựa trên bốn trụ cột lớn:
Một là, thực dụng kinh tế. Thông qua việc khuyến khích theo đuổi quan hệ hợp tác kinh tế với Trung Quốc, cỗ máy tăng trưởng của thế giới, Việt Nam đã tận dụng được đòn bẩy kinh tế từ Trung Quốc để phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế và tăng cường nội lực của mình. Mặc dù còn những bất cập, như tình trạng nhập siêu lớn, phụ thuộc Trung Quốc về một số mặt hàng nguyên vật liệu đầu vào… nhưng nhìn chung không thể phủ nhận đóng góp của quan hệ giao thương với Trung Quốc vào sự phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam hơn hai thập niên qua. Điều đáng nói là dù quan hệ giữa hai nước có những thăng trầm nhất định do tranh chấp Biển Đông nhưng cho đến nay có thể nói quan hệ kinh tế song phương đã được tách bạch ra khỏi những căng thẳng đó và quan hệ kinh tế giữa hai nước chưa bị Trung Quốc “bắt làm con tin” để cưỡng ép Việt Nam trong vấn đề Biển Đông. Tuy nhiên, đây vẫn là một khả năng có thể xảy ra, đặc biệt là trong trường hợp quan hệ song phương lao dốc.
Hai là, can dự chính trị. Việt Nam đã tăng cường quan hệ chính trị và các cơ chế giao lưu song phương ở mọi cấp độ với Trung Quốc nhằm tăng cường hiểu biết, tin cậy chính trị lẫn nhau. Cụ thể, từ sau bình thường hóa tới nay, hai bên đã trao đổi 36 chuyến thăm cấp cao (giữa Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng phía Việt Nam với Chủ tịch nước/ Tổng Bí thư, Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng phía Trung Quốc), cùng hàng nghìn chuyến thăm các cấp khác. Hai bên cũng đã nâng cấp quan hệ lên mức Đối tác Chiến lược Toàn diện năm 2008. Cơ chế can dự song phương hiện có ở cả cấp độ Đảng lẫn Chính phủ, cấp trung ương lẫn địa phương, và cấp chính thức lẫn dân gian. Điểm đáng nói là mặc dù quan hệ chính trị và sự can dự song phương có bước phát triển đáng kể nhưng điều này không giúp Việt Nam kiềm chế được Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp Biển Đông.
Ba là, cân bằng cứng. Do tranh chấp Biển Đông là mối đe dọa lớn nhất đối với an ninh quốc gia cũng như toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời với nhận thức rằng sự phát triển của quan hệ chính trị và kinh tế không thể giúp hóa giải vấn đề Biển Đông, nên Việt Nam cũng đã theo đuổi chính sách “cân bằng cứng” bằng cách tăng cường sức mạnh quốc phòng. Biện pháp này được thực hiện bằng cả nội lực thông qua phát triển năng lực ngành công nghiệp quốc phòng nội địa lẫn biện pháp hợp tác quốc tế và mua sắm vũ khí từ các đối tác nước ngoài. Có thể nói cho đến nay chính sách này đã giúp Việt Nam tăng cường đáng kể sức mạnh chiến đấu và khả năng răn đe đối với kẻ thù. Tuy nhiên, cần nhận thức rằng, trong quan hệ với Trung Quốc và tranh chấp Biển Đông, khả năng quốc phòng của Việt Nam dù phát triển lớn mạnh tới đâu cũng không bao giờ đuổi kịp Trung Quốc, vốn hiện giờ là nước có chi phí quốc phòng lớn thứ 2 thế giới và vượt xa tổng chi tiêu quốc phòng của cả 10 nước ASEAN cộng lại.
Bốn là, cân bằng mềm. Đây là biện pháp mà Việt Nam ưu tiên áp dụng để ứng phó với sức ép của Trung Quốc, thông qua việc tăng cường quan hệ ngoại giao với các quốc gia trong khu vực, đặc biệt là các cường quốc và các quốc gia tầm trung,cũng như thông qua việc khai thác tối đa đòn bẩy ngoại giao mà các tổ chức và dàn xếp khu vực, nhất là ASEAN và các dàn xếp do ASEAN chủ trì, mang lại. Đặc biệt cho đến nay Việt Nam đã có được tiếng nói đáng kể trong khuôn khổ ASEAN và đã thiết lập các mối quan hệ đối tác chiến lược hoặc toàn diện với 15 quốc gia khác nhau. Trong khi đây là một thành tựu đáng kể đối với Việt Nam thì cũng cần phải thấy rằng các biện pháp cân bằng mềm sẽ bị hạn chế nếu Trung Quốc tìm cách chia rẽ ASEAN, phớt lờ các thể chế khu vực, đồng thời nếu quan hệ “đối tác chiến lược” giữa Việt Nam và các đối tác chính không vượt được ra ngoài khuôn khổ hình thức để đi vào các biện pháp hợp tác thực chất nhằm đối phó với mối đe dọa Trung Quốc.
Bốn trụ cột này trong chiến lược Trung Quốc của Việt Nam được các học giả quan hệ quốc tế gọi với một tên chung là chiến lược “hedging”, tạm dịch là chiến lược “phòng bị nước đôi”. Theo đó, Việt Nam đã không thiên hẳn về chính sách “phù thịnh” (bandwagon) với Trung Quốc hay “cân bằng” (balancing) chống lại láng giềng phương Bắc của mình mà áp dụng một chiến lược kết hợp các mẫu hình chính sách của cả hai hướng tiếp cận. Chiến lược “phòng bị nước đôi” vì vậy cho phép Việt Nam khai thác tối đa mối quan hệ với Trung Quốc để phục vụ mục tiêu phát triển của mình, đồng thời giúp Việt Nam “phòng bị” được trong trường hợp quan hệ xấu đi. Cụ thể, khi sức ép từ Trung Quốc vượt qua “giới hạn đỏ”, Việt Nam có thể chuyển hướng sang chiến lược “cân bằng” để đối phó với Trung Quốc mà không phải mất quá nhiều thời gian để xoay chuyển tư thế chiến lược của mình.
Bên cạnh đó, trong hơn 20 năm qua từ sau khi bình thường hóa, Việt Nam cũng đã duy trì một chính sách có thể gọi là không liên minh – liên kết trong quan hệ đối ngoại nói chung và quan hệ với Trung Quốc nói riêng. Theo đó, dù áp dụng các biện pháp ít nhiều mang tính đề phòng Trung Quốc như đã nói trên, nhưng các quan chức Việt Nam cũng nhiều lần khẳng định rằng “Việt Nam…là một nước độc lập, không liên minh, liên kết, đồng minh với nước nào, không dùng nước thứ 3 để chống lại nước khác.”
Với mục tiêu duy trì đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, “muốn là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế” và duy trì quan hệ láng giềng tốt với Trung Quốc thì rõ ràng chính sách không liên minh – liên kết như trên là phù hợp.
Tại sao cần chuyển hướng sang chính sách liên minh?
Tuy nhiên, một chính sách tốt đối ngoại tốt không phải là một chính sách bất biến, được áp dụng trong mọi hoàn cảnh, mà phải là một chính sách linh hoạt, có thể điều chỉnh phù hợp với hoàn cảnh biến đổi để mang lại lợi ích tốt nhất cho quốc gia.
Như đã nói, sự cố Giàn khoan Hải dương 981 đã làm biến đổi nền tảng quan hệ Việt Trung từ sau bình thường hóa, chuyển hóa môi trường chiến lược của Việt Nam lẫn khu vực theo hướng bất lợi cho Việt Nam nếu như Việt Nam vẫn giữ cách tiếp cận cũ đối với chính sách đối ngoại nói chung cũng như chính sách Trung Quốc nói riêng. Nói cách khác, thế cân bằng cũ trong chính sách ngoại giao và chiến lược của Việt Nam đã bị Trung Quốc phá vỡ, và Việt Nam cần chủ động chuyển sang một thế cân bằng mới cho các chính sách của mình. Cụ thể hơn, đã đến lúc Việt Nam cần điều chỉnh lại chiến lược Trung Quốc từ sau bình thường hóa tới nay, đồng thời từng bước từ bỏ chính sách không liên minh – liên kết để dần chuyển hướng sang chính sách liên minh một cách khôn khéo và có chọn lọc để ứng phó với Trung Quốc. Sau đây là những lý do cơ bản cho sự chuyển hướng này.
Thứ nhất, hiện nay nền tảng của chính sách không liên minh – liên kết của Việt Nam đã trở nên không còn phù hợp hoặc phản tác dụng. Mỗi chính sách đều xuất phát từ một nền tảng nhất định. Khi các nền tảng thay đổi thì cần phải có sự điều chỉnh chính sách để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, giúp bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia. Cụ thể:
- Chính sách không liên minh – liên kết chỉ phù hợp với từng giai đoạn lịch sử. Thực tế, chính sách không liên minh – liên kết về cơ bản là một sản phẩm từ thời Chiến tranh lạnh, khi mà các nước Thế giới thứ Ba tìm cách để không bị vướng vào cuộc xung đột Đông – Tây nên đã hình thành nên Phong trào Không liên kết như một cách thức vừa tập hợp lực lượng, nâng cao vị thế, vừa tự bảo vệ mình trước cuộc xung đột Đông – Tây. Sau Chiến tranh lạnh, một số quốc gia như Việt Nam vẫn theo đuổi chính sách này vì nó vẫn ít nhiều phù hợp với lợi ích quốc gia của mình, nhất là trong việc khẳng định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ. Mặt khác, riêng đối với Việt Nam, chính sách không liên minh – liên kết còn nhằm trấn an Trung Quốc, đặc biệt là trong khoảng một thập niên gần đây, khi Trung Quốc luôn e ngại việc bị Hoa Kỳ tìm cách bao vây, kiềm chế. Tuy nhiên, khi môi trường và lợi ích thay đổi thì sự trung thành của các quốc gia đối với chính sách không liên kết cũng thay đổi theo. Ví dụ, bản thân Trung Quốc vốn là nước đầu tàu trong phong trào không liên kết hiện nay cơ bản cũng đã từ bỏ chính sách này (xem thêm bài Tư duy mới của Trung Quốc về liên minh) bằng cách thắt chặt quan hệ với Nga nhằm đối trọng với Mỹ, mà biểu hiện gần đây nhất là chuyến thăm của Putin tới Bắc Kinh với việc hai bên ký kết hợp đồng khí đốt kỷ lục và hỗ trợ nhau về ngoại giao, quốc phòng trong các vấn đề quốc tế và khu vực.
- Chính sách không liên minh – liên kết chỉ là lựa chọn tốt khi an ninh Việt Nam không bị đe dọa bởi các thế lực bên ngoài. Khi bị đe dọa, ép buộc, việc không liên minh – liên kết cướp đi của Việt Nam một lựa chọn hữu hiệu nhằm cân bằng lại mối đe dọa. Hiện nay, trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng trở nên xác quyết trong vấn đề Biển Đông, có biểu hiện từ bỏ chính sách “thao quang dưỡng hối” để bắt đầu dùng sức mạnh đã tích lũy bấy lâu nhằm đạt được các mục tiêu đối ngoại của mình, thì việc Việt Nam tiếp tục trung thành với chính sách không liên minh – liên kết sẽ càng biến chúng ta thành một “mục tiêu thuận tiện” cho Trung Quốc thực hiện mưu đồ. Phải nhận thức rõ ràng rằng vụ Giàn khoan Hải dương 981 sẽ không phải là vụ cuối cùng, cũng không phải là mức độ cưỡng ép cao nhất mà Trung Quốc sử dụng. Sẽ còn có nhiều vụ tương tự, và mức độ cưỡng ép của Trung Quốc sẽ còn cao hơn, không loại trừ việc Trung Quốc sử dụng vũ lực. Vì vậy, trong trường hợp này việc không liên minh liên kết sẽ phản tác dụng đối với Việt Nam.
- Việc không liên minh – liên kết chỉ hợp lý khi nội lực của Việt Nam đủ mạnh. Trong trường hợp đó, dù xuất hiện các mối đe dọa, Việt Nam vẫn có thể ít nhiều tự xoay sở để đối phó. Tuy nhiên trong thực tế, dù hiện nay nội lực tổng hợp của Việt Nam nói chung cũng như năng lực quốc phòng nói riêng đã có nhiều cải thiện so với khoảng 2 thập niên trước đây, nhưng nhìn nhận khách quan thì chúng ta vẫn còn rất yếu, nhất là so với Trung Quốc. Nếu Việt Nam tiến bộ một thì Trung Quốc đã tiến bộ mười. Nếu chỉ một mình dựa vào nội lực và một vài sự ủng hộ ngoại giao hình thức để đối chọi với Trung Quốc là một điều không tưởng. Vì vậy, trong bối cảnh Trung Quốc trỗi dậy với sức mạnh vượt trội và ngày càng trở nên hung hăng, hiếu chiến, thì nền tảng của chính sách không liên minh – liên kết của Việt Nam cũng bị lung lay.
Thứ hai, Trung Quốc đã phá vỡ “điểm cân bằng” trong quan hệ song phương và buộc Việt Nam phải thay đổi chiến lược. Nói cách khác, Việt Nam không còn đường lùi. Thực tế, quan hệ song phương trong lịch sử có thể nói luôn dựa trên một thỏa thuận ngầm, bất thành văn giữa hai nước, rằng Việt Nam sẽ tôn trọng Trung Quốc, thậm chí chấp nhận vai trò bá chủ của Trung Quốc, miễn là Trung Quốc tôn trọng sự độc lập, toàn vẹn lãnh thổ và quyền tự chủ của Việt Nam. Bởi thế mà các triều đình phong kiến Việt Nam bề ngoài thường chấp nhận tham gia hệ thống triều cống của Bắc Kinh như một cái giá danh nghĩa để đổi lấy hòa bình và cơ hội giao thương, phát triển cho Việt Nam, trong khi vẫn có thể duy trì được nền độc lập, tự chủ của mình. Quan hệ thời kỳ hiện đại, nhất là giai đoạn từ sau bình thường hóa cũng vậy, dù là trên danh nghĩa chủ quyền bình đẳng, hai bên cùng có lợi, nhưng Việt Nam vẫn đã giành cho Trung Quốc sự tôn trọng đúng mực trong vai trò một nước lớn, mà chính sách không liên minh – liên kết của Việt Nam là một hình thức của sự tôn trọng đó. Đổi lại, Trung Quốc cũng được kỳ vọng sẽ tôn trọng độc lập, toàn vẹn lãnh thổ và sự tự chủ của Việt Nam. Tuy nhiên, với sự cố Hải dương 981, là sự cố nghiêm trọng nhất từ sau bình thường hóa nhưng chắc chắn không phải là sự cố cuối cùng, Trung Quốc đã vi phạm thỏa thuận ngầm này và phá vỡ “điểm cân bằng” trong quan hệ song phương. Khi điểm cân bằng bị phá vỡ, Việt Nam hoặc phải quy thuận theo Trung Quốc, hoặc phải tìm cách để ứng phó lại. Tuy nhiên, đó không phải là lựa chọn mà Việt Nam có thể thực hiện, bởi Việt Nam chỉ có một con đường là tìm cách ứng phó lại mối đe dọa từ Trung Quốc mà không thể “đánh đổi chủ quyền lấy thứ hữu nghị viễn vông”. Trong bối cảnh đó, chính sách không liên minh – liên kết không giúp được gì cho Việt Nam.
Thứ ba, Việt Nam có đủ điều kiện thuận lợi để chuyển sang chính sách liên minh. Một mặt, vị thế quốc tế và nội lực của Việt Nam hiện nay khác với thời kỳ trước bình thường hóa. Trong quá khứ, nhất là giai đoạn cuối 1970, khi Việt Nam liên minh với Liên Xô để đối phó với Trung Quốc, Việt Nam ít nhiều đã phải trả giá. Tuy nhiên lúc đó trong nước Việt Nam nội lực yếu kém, bên ngoài lại bị bao vây, cô lập, cấm vận, quan hệ ngoại giao hạn chế, nên đã dễ dàng bị Trung Quốc chèn ép, gây khó khăn, đặc biệt Trung Quốc đã có thể dùng vấn đề Campuchia để khiến Việt Nam “chảy máu đến chết”. Tuy nhiên, hiện nay nội lực của chúng ta đã lớn mạnh hơn trước nhiều. Đặc biệt, liên quan đến xu hướng liên minh, chúng ta đã có quan hệ ngoại giao rộng mở, có quan hệ kinh tế hai bên cùng có lợi với hầu hết các nước trên thế giới. Chúng ta cũng có quan hệ bình thường và ngày càng phát triển với các cường quốc lớn và tầm trung. Đặc biệt, chúng ta đã là thành viên của tất cả các tổ chức chủ chốt của khu vực và thế giới. Vì vậy chúng ta vừa có điều kiện và mạng lưới quan hệ thuận lợi để hình thành các liên minh, vừa có đủ không gian ngoại giao để thoát thế bao vây, cô lập của Trung Quốc nếu bị trả đũa.
Thứ tư, môi trường chiến lược khu vực và thế giới hiện nay có lợi cho sự chuyển hướng của Việt Nam. Cụ thể, trong vấn đề Biển Đông, chúng ta có ưu thế chính nghĩa so với Trung Quốc. Các yêu sách quá mức và phi lý, bất chấp luật pháp quốc tế, cùng cách tiếp cận dựa trên sức mạnh của Trung Quốc nhìn chung đã khiến “mối đe dọa Trung Quốc” không còn là một lý thuyết nữa mà trở thành một điều hiện hữu. Vì vậy, Việt Nam sẽ dễ dàng nhận được sự ủng hộ của các nước và thu hút những “đồng minh” tiềm tàng. Ở khu vực, Việt Nam có đồng minh tự nhiên là các nước cùng có tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc, đặc biệt là Philippines. Ở phạm vi xa hơn, chúng ta có Nhật Bản, nước cũng có các tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc và ngày càng lo ngại trước mối đe dọa đến từ Bắc Kinh. Ở phạm vi xa hơn nữa, Ấn Độ và Hoa Kỳ cũng là những quốc gia có những lợi ích chiến lược mâu thuẫn với Trung Quốc. Đó là chưa kể các quốc gia tầm trung hay có ảnh hưởng lớn ở khu vực như Hàn Quốc, Australia, Indonesia, Singapore… cũng có những lý do để đồng cảm với Việt Nam trong nỗ lực tìm cách chống lại mối đe dọa từ Trung Quốc.
Tóm lại, phân tích các lý do cho thấy Việt Nam có đầy đủ lý do để nên theo đuổi một chính sách liên minh – liên kết một cách khôn ngoan và có chọn lọc để đối phó với mối đe dọa từ Trung Quốc. Vấn đề đặt ra là Việt Nam có đủ ý chí để thực hiện sự chuyển hướng này hay không. Câu hỏi này lại liên quan đến nhận thức của Việt Nam đối với các thách thức và rủi ro mà Việt Nam có thể gặp phải.
Thách thức và rủi ro
Thách thức lớn nhất đối với Việt Nam chính là sự trả đũa của Trung Quốc. Một khi nhận thấy Việt Nam liên kết với các nước khác, nhất là những cường quốc có lợi ích đối chọi như Hoa Kỳ hay Nhật Bản, Trung Quốc sẽ tìm cách “trừng phạt” hay gây sức ép đối với Việt Nam. Năm hình thức “trừng phạt” cơ bản nhất có thể có bao gồm:
- Hạn chế, thậm chí gián đoạn quan hệ ngoại giao với Việt Nam, kết hợp bao vây cô lập Việt Nam tại các diễn đàn, tổ chức quốc tế
- Can thiệp, kích động chống phá, phá hoại kinh tế – chính trị từ trong nội bộ Việt Nam
- Sử dụng bên thứ ba để chống phá Việt Nam như trường hợp Khmer Đỏ những năm 1970 – 1980
- Tấn công quân sự Việt Nam
- Cắt đứt quan hệ kinh tế với Việt Nam
Nếu phân tích các khả năng cơ bản này, chúng ta có thể thấy trong điều kiện hiện tại, các lựa chọn này của Trung Quốc hoặc ít khả thi, hoặc không gây thiệt hại đáng kể cho Việt Nam. Cụ thể
- Việc hạn chế hoặc gián đoạn quan hệ ngoại giao với Việt Nam đơn giản sẽ không giúp ích gì cho Trung Quốc. Trái lại duy trì quan hệ ngoại giao sẽ tạo cơ hội cho Trung Quốc đàm phán với Việt Nam, tìm cách dụ dỗ lôi kéo Việt Nam quay lại về phía mình. Hơn nữa do Việt Nam đã có quan hệ rộng mở, việc cắt đứt quan hệ ngoại giao cũng không giúp Trung Quốc bao vây, cô lập Việt Nam. Tại các diễn đàn quốc tế, với vị thế của Việt Nam hiện tại, Trung Quốc cũng không thể dễ dàng cô lập Việt Nam bởi không như thời kỳ Chiến tranh lạnh, các tổ chức quốc tế không còn bị chia rẽ sâu sắc thành các phe khối khép kín, đối lập, trong khi Việt Nam đang có quan hệ tốt với các cường quốc trên thế giới.
- Việc Trung Quốc can thiệp, kích động chống phá Việt Nam từ bên trong là hoàn toàn có thể. Tuy nhiên nếu Việt Nam nâng cao cảnh giác, tiến hành các biện pháp đề phòng, thắt chặt kiểm soát biên giới và an ninh trong nước thì nguy cơ này hoàn toàn có thể ngăn chặn được.
- Việc sử dụng các bên thứ ba chống phá Việt Nam cũng không phải là một lựa chọn khả dĩ của Trung Quốc, bởi không có sẵn một lực lượng như vậy cho Trung Quốc lợi dụng. Hiện nay lựa chọn này chỉ trở nên khả dĩ hơn đối với Trung Quốc nếu tình hình ở Campuchia chuyển biến bất lợi cho Việt Nam với việc Đảng Cứu quốc của Sam Rainsy, người vốn có xu hướng chống Việt Nam, thắng cử. Tuy nhiên điều này cũng ít xảy ra bởi khả năng Sam Rainsy thắng cử trong thời gian tới là không chắc chắn. Ngoài ra kể cả nếu thắng cử Sam Rainsy cũng có thể thay đổi quan điểm bới chống Việt Nam sẽ phương hại tới an ninh và kinh tế của Campuchia, trong khi bản thân Sam Rainsy cũng phải chịu trách nhiệm đối với cử tri trong nước về an ninh và thành tích kinh tế của quốc gia nếu muốn tiếp tục thắng cử.
- Tấn công quân sự Việt Nam cũng không phải là lựa chọn khôn ngoan mà Trung Quốc sẽ tiến hành. Trước hết hành động quân sự sẽ bị cộng đồng quốc tế lên án vì vi phạm luật pháp quốc tế. Vị thế quốc tế của Việt Nam và môi trường chiến lược quốc tế hiện nay không cho phép Trung Quốc dễ dàng tiến hành tấn công quân sự Việt Nam như năm 1979. Hơn nữa việc Việt Nam đã nâng cao sức mạnh quốc phòng đáng kể thời gian qua hoàn toàn có thể làm Trung Quốc chùn tay. Ví dụ, các nhà chiến lược Việt Nam đã nói đến khả năng dùng các tên lửa tấn công vào các thành phố trọng yếu của Trung Quốc ở phía Nam trong trường hợp Trung Quốc tấn công quân sự. Vì vậy, dù không được phép chủ quan, nhưng Việt Nam cũng không nên quá lo lắng trước khả năng này.
- Cuối cùng, khả năng cao nhất là Trung Quốc có thể sử dụng biện pháp cắt đứt quan hệ kinh tế để trừng phạt Việt Nam. Năm 2013, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, với 28% nhập khẩu của Việt Nam đến từ Trung Quốc, trong đó có nhiều mặt hàng quan trọng như phụ tùng, máy móc, nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất. Ngoài ra, Trung Quốc cũng tiêu thụ 10% giá trị xuất khẩu của Việt Nam. Ngoài ra quan hệ kinh tế song phương còn có đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam và sự tham gia của các nhà thầu Trung Quốc trong các dự án công nghiệp – xây dựng. Có ước tính cho rằng, nếu Trung Quốc chấm dứt quan hệ kinh tế song phương thì GDP của Việt Nam sẽ bị thu hẹp 10%. Tuy nhiên mối đe dọa này không nên bị thổi phồng bởi lẽ: 1) Nếu Trung Quốc chấm dứt trao đổi kinh tế, bản thân Trung Quốc cũng sẽ thiệt hại. Kinh nghiệm từ trường hợp Nga – EU cho thấy, vũ khí kinh tế là con dao hai lưỡi không phải lúc nào cũng có thể sử dụng được; 2) Các hoạt động thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc hiện nay có sự tham gia lớn của các tập đoàn đa quốc gia liên quan tới các nước thứ ba. Chính vì vậy Trung Quốc không thể đơn giản chấm dứt thương mại song phương mà không gây nên sự phản đối và sức ép từ các nước này; 3) Với quan hệ thương mại, đầu tư rộng mở, Việt Nam có thể tìm được các thị trường xuất nhập khẩu thay thế để ít nhất giảm thiểu thiệt hại; 4) Trong cái rủi có cái may, nếu Trung Quốc hạn chế hoặc gián đoạn trao đổi kinh tế thì đó cũng là một cú hích giúp Việt Nam thay đổi, cải cách từ bên trong, đa dạng hóa quan hệ kinh tế với bên ngoài để vừa giảm phụ thuộc vào Trung Quốc , vừa tạo đà tăng trưởng bền vững hơn cho nền kinh tế về lâu dài.
Tóm lại các rủi ro gắn liền với việc Trung Quốc trả đũa nếu Việt Nam quyết định đi theo con đường liên minh để đối trọng lại với Trung Quốc là có, nhưng không nên bị thổi phồng. Chính vì vậy thách thức lớn nhất đối với sự chuyển hướng này chính là việc liệu nội bộ Việt Nam có đủ sự đồng lòng và quyết tâm, đặc biệt là ở các lãnh đạo cấp cao, trong việc từ bỏ thứ “hữu nghị viễn vông” để tìm một thế đứng tốt hơn vì lợi ích dân tộc hay không.
Một vài gợi ý chính sách
Như vậy, có thể thấy, nếu Trung Quốc tiếp tục duy trì sức ép như hiện nay, Việt Nam cần tính đến phương án theo đuổi các liên minh để đối trọng với Trung Quốc bởi đây là một lựa chọn vừa phù hợp với đòi hỏi của tình hình, vừa khả thi về mặt thực hiện. Tuy nhiên, trước khi Việt Nam có thể thực sự áp dụng chính sách này, cần định rõ một số nguyên tắc cơ bản như sau:
- Chính sách liên minh không phải là một chính sách bất biến, một chiều hay tuyến tính. Cũng như chính sách không liên minh – liên kết, chính sách liên minh cũng có thể được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình. Tùy vào yêu cầu của tình hình, Việt Nam có thể tăng cường hay dịu bớt ưu tiên đối với chính sách này, miễn sao có thể giúp phục vụ tốt nhất lợi ích quốc gia, thể hiện trước hết ở việc bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền quốc gia, và sau đó là đồng thời duy trì được quan hệ hòa bình, ổn định, hai bên cùng có lợi với Trung Quốc.
- Một khi đã chuyển hướng sang chính sách liên minh, thì dù điều chỉnh mức độ ưu tiên, Việt Nam vẫn cần phải duy trì chính sách này đề phòng trường hợp Trung Quốc “ngựa quen đường cũ”. Ngoài ra, việc xây dựng các liên minh đòi hỏi nhiều thời gian và công sức, đặc biệt là trong việc xây dựng lòng tin, nên đó là một tài sản chiến lược quan trọng mà Việt Nam cần gìn giữ để sử dụng phù hợp trong ứng xử với Trung Quốc.
- Liên minh không đồng nghĩa với liên minh với Hoa Kỳ. Các đối tác liên minh của Việt Nam có thể đa dạng, tùy vào phạm vi và mục đích của liên minh, dựa trên nguyên tắc phối hợp với những nước có lợi ích tương đồng để cùng theo đuổi mục đích hay cân bằng lại mối đe dọa chung.
- Liên minh không nên được hiểu chỉ có nghĩa là liên minh quân sự mà còn có thể là liên minh về chính trị, ngoại giao, pháp lý…, qua đó giúp các quốc gia cùng chia sẻ lợi ích đối phó với mối đe dọa chung. Thực tế, kể cả khi Việt Nam đã hình thành hoặc tham gia được các liên minh thì Việt Nam cũng cần xác định rằng trong trường hợp xảy ra đụng độ quân sự, trách nhiệm chủ chốt, nếu không nói là duy nhất, vẫn thuộc về Việt Nam. Tuy nhiên, việc hình thành các liên minh về chính trị, ngoại giao, pháp lý… với các nước khác bản thân chúng đã có giá trị răn đe đối với Trung Quốc. Hơn nữa, trong trường hợp xung đột không thể tránh khỏi thì các đồng minh dù không can dự trực tiếp về quân sự nhưng vẫn có thể mang lại những hỗ trợ quý giá về cả vật tài vật lực lẫn tinh thần để giúp chúng ta chống lại sức ép quân sự từ phía Trung Quốc.
- Việc theo đuổi các liên minh không đồng nghĩa Việt Nam phải hi sinh quan hệ với Trung Quốc. Các liên minh chỉ là một công cụ giúp Việt Nam quản lý và điều chỉnh mối quan hệ với Trung Quốc mà thôi. Là một nước lớn, Trung Quốc đáng nhận được sự tôn trọng của Việt Nam, nhưng với điều kiện Trung Quốc cũng tôn trọng các lợi ích chính đáng của Việt Nam. Chính vì vậy trong trường hợp Trung Quốc thể hiện mình không phải là một mối đe dọa đối với Việt Nam thì Việt Nam vẫn sẵn sàng phát triển quan hệ tốt đẹp với Trung Quốc, nhất là về mặt kinh tế, và chính sách liên minh của Việt Nam sẽ nằm ở trạng thái “chờ”, đề phòng cho trường hợp mối đe dọa từ Trung Quốc tái trỗi dậy.
Trên cơ sở các điều kiện và nguyên tắc này, Việt Nam cần xác định các liên minh có thể xây dựng, xác định các đồng minh phù hợp cho từng liên minh, đồng thời thiết lập lộ trình để hiện thực hóa chúng. Hiện nay có thể xác định 3 loại hình liên minh mà Việt Nam có thể thiết lập là liên minh chính trị – ngoại giao, liên minh pháp lý, và liên minh quân sự. Đương nhiên có thể có sự kết hợp giữa các liên minh này với nhau ở những quốc gia đồng minh nhất định.
Về đối tượng đồng minh, có thể xác định:
- Liên minh chính trị – ngoại giao: Nòng cốt sẽ là Việt Nam – Philippines, vòng thứ hai sẽ là Hoa Kỳ, Ấn Độ, Nhật Bản, Indonesia, Singapore, Malaysia, vòng thứ ba sẽ là các quốc gia còn lại của ASEAN và các thành viên khác của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, cùng với Australia và Hàn Quốc.
- Liên minh pháp lý: Nòng cốt sẽ là Việt Nam – Philippines, Vòng hai sẽ là Malaysia, Brunei, những nước có tranh chấp với Trung Quốc ở Biển Đông. Vòng thứ ba sẽ là Indonesia, Singapore và Nhật Bản, Hoa Kỳ, những nước có lợi ích lớn trong việc tôn trọng luật pháp quốc tế ở Biển Đông.
- Liên minh quân sự: Đối tác liên minh quân sự khả dĩ nhất cho Việt Nam chính là Hoa Kỳ. Theo đó nếu Việt Nam có được quan hệ liên minh quân sự với Hoa Kỳ thì sẽ gần như tự động gia nhập mạng lưới liên minh “trục và nan hoa” với các đồng minh của Hoa Kỳ tại khu vực như Nhật, Hàn Quốc, Philippines, Australia… Tuy nhiên khả năng này trong tình hình hiện tại còn nhiều trở ngại, nên tạm thời xin chưa bàn tới ở đây. Tuy nhiên, Việt Nam cần chuẩn bị dần các điều kiện cho điều này bằng cách cải thiện quan hệ hơn nữa với Hoa Kỳ, nhất là quan hệ chính trị. Đặc biệt, Việt Nam cần từ bỏ cách tiếp cận dựa trên “ý thức hệ” để phát triển quan hệ song phương một cách thực chất với mục tiêu lợi ích quốc gia, dân tộc là trên hết. Chỉ khi các rào cản chính trị và ý thức hệ được dỡ bỏ thì mới có thể tính tới được một mối quan hệ gần gũi về mặt quân sự giữa hai nước. Ngoài ra, các đồng minh quân sự tiềm tàng của Việt Nam còn có Philippines và Nhật Bản.
Về mặt lộ trình, Việt Nam cần tiến hành từng bước, vừa thực hiện vừa đánh giá phản ứng của các bên liên quan, nhất là Trung Quốc. Theo đó, trước mắt Việt Nam cần làm ngay các việc sau theo thứ tự ưu tiên:
- Ký kết hiệp định đối tác chiến lược với Philippines càng sớm càng tốt
- Tham gia cùng Philippines trong vụ kiện Trung Quốc
- Cùng các nước ASEAN, đặc biệt là các nước có tranh chấp nếu toàn bộ ASEAN không đạt được đồng thuận, ký kết một bản Quy tắc ứng xử trên Biển Đông mang tính ràng buộc pháp lý giữa các bên với nhau, đồng thời mở cho các bên quan tâm ngoài khu vực tham gia (đặc biệt là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ), không cần chờ Trung Quốc đồng ý
- Thiết lập cơ chế hợp tác, tham vấn trực tiếp về Biển Đông giữa 4 nước Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei (có thể mời Đài Loan tham gia) dưới hình thức một cuộc họp không chính thức về Biển ASEAN như các học giả và chuyên gia Indonesia đã đề xuất.)
- Mở cửa cảng Cam Ranh cho tàu chiến Hoa Kỳ, Ấn Độ cũng như các nước có quan tâm
- Nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược với Hoa Kỳ và Australia (dù danh nghĩa hay thực chất đều có tác động răn đe đối với Trung Quốc)
- Mời Hoa Kỳ và các quốc gia quan tâm tham gia tập trận trong vùng biển Việt Nam
- Thiết lập lực lượng hải quân quốc tế với sứ mạng “gìn giữ hòa bình” tuần tra chung tại Biển Đông nói chung và quần đảo Trường Sa nói riêng…
Đây chỉ là những gợi ý sơ bộ, cần được đánh giá, cân nhắc, thêm bớt,… để đảm bảo tính khả thi. Tuy nhiên, nguyên tắc là cần làm từng bước, dễ trước khó sau, để thăm dò phản ứng của Trung Quốc cũng như các bên liên quan. Sau đó tùy tình hình Việt Nam có thể điều chỉnh lộ trình cũng như các bước đi cụ thể cho phù hợp.
Tóm lại, điểm mấu chốt là đã đến lúc Việt Nam cần nghiêm túc xem xét lựa chọn liên minh như là một chiến lược lâu dài để đối phó với Trung Quốc trong bối cảnh chắc chắn Trung Quốc sẽ ngày càng hung hăng và xác quyết hơn trên Biển Đông. Tuy nhiên, lựa chọn này có khả thi hay không và có thể thực hiện đến đâu, tất cả còn phụ thuộc vào quyết tâm chính trị và tầm nhìn chiến lược về lợi ích quốc gia của các lãnh đạo Việt Nam.
Rốt cuộc, Việt Nam không thể chọn được láng giềng, nhưng có thể chọn được cách cư xử sao cho phù hợp nhất với láng giềng đó để bảo vệ lợi ích quốc gia của mình.
Lê Hồng Hiệp là giảng viên Khoa Quan hệ Quốc tế, trường ĐHKHXH&NV, Đại học Quốc gia TPHCM, và hiện là Nghiên cứu sinh tại trường ĐH New South Wales, Học viện Quốc phòng Australia, Canberra.
Bài cùng chủ đề: