Nhật Bản: Từ  cải cách hiến pháp đến hợp tác an ninh hàng hải với Việt Nam và Philippines

Print Friendly, PDF & Email

Tác giả: Hà Văn Long & Huỳnh Tâm Sáng

240614_pnoy01

Việc Trung Quốc ngày càng quyết đoán hơn trong chính sách tại biển Đông đang thách thức an ninh của khu vực nói chung và an ninh hàng hải nói riêng. Các nước nhỏ đang bị “Trung Quốc bắt nạt”, đặc biệt là Philippines và Việt Nam, hiểu rằng để đối phó với một “con rồng hung hăng” thì ngoài tăng cường sức mạnh nội tại của quốc gia, việc hợp tác với những nước đang có “chung vấn đề” với nhau sẽ giúp họ có thêm những sức mạnh cần thiết và kịp thời để đối phó với những thách thức an ninh chung của khu vực. Và một nước lớn đang cùng có “chung vấn đề” đó không ai khác chính là Nhật Bản.

Vai trò an ninh mới của Nhật Bản

Đối với Nhật Bản, ngoài những tranh chấp đơn thuần với Trung Quốc trên biển Hoa Đông, thì Biển Đông chính là con đường “sinh mệnh” của họ. Cục phòng vệ Nhật Bản (bây giờ là Bộ Quốc phòng Nhật Bản) tuyên bố: “Đông Nam Á, trong đó có eo biển Malacca, Biển Đông, vùng biển gần Philippines và Indonesia, vô cùng quan trọng đối với việc vận chuyển tài nguyên thiên nhiên đến Nhật Bản, khu vực này là điểm then chốt để liên kết giao thông giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.” Vì vậy, bất cứ một xung đột lớn nào tại đây đều sẽ làm gián đoạn tuyến đường cung cấp dầu khí cho Nhật Bản, trực tiếp tác động tới sự sống còn của nền kinh tế, chính trị và an ninh của Nhật Bản.

Cùng với đó, trước những biến động lớn của tình hình thế giới, và khu vực. Nhật Bản đang muốn thoát khỏi cái bóng của “kẻ thua trận” trong Thế chiến II để đảm nhận một vị trí cao hơn trong nền an ninh, chính trị khu vực cũng như toàn cầu. Điều 9 Hiến pháp Nhật nêu rõ: “[…] Nhật Bản sẽ không bao giờ duy trì các lực lượng lục quân, hải quân, không quân hay các tiềm năng quân sự khác. Quyền tham chiến không được công nhận”. Đây là rào cản quá lớn đối với Nhật Bản từ năm 1947. Đó là lý do từ sau Thế chiến II, Nhật Bản vẫn phải chịu “lép vế” hơn so với Trung Quốc về mặt quân sự.

Thủ tướng Abe giữ vai trò quan trọng trong quyết định tu chính điều 9 của Hiến pháp. Những năm gần đây, ông Abe và những người ủng hộ luôn đề cao thuyết “hòa bình tích cực” (active pacifism). Điều 9 của Hiến pháp đã cản trở khả năng này. Ví dụ, theo điều 9 thì Nhật sẽ không thể đánh chặn tên lửa nhằm vào Mỹ hoặc bảo vệ tàu của một đồng minh đang bị tấn công. Khi đó, mối đe dọa cho đồng minh sẽ là mối đe dọa cho Nhật Bản. Ngoài ra, mặc dù các cam kết vẫn luôn hiện hữu nhưng không ai đảm bảo Mỹ sẽ hỗ trợ Nhật tích cực khi Senkaku/ Điếu Ngư bị đe dọa. Nếu chính Nhật Bản không thể hiện vai trò chủ động, Mỹ cũng chẳng mặn mà gì đánh cược quan hệ Mỹ – Trung khi xung đột Trung – Nhật diễn ra xung quanh Senkaku/ Điếu Ngư.

Sáng ngày 1/7/2014, Dự thảo Nghị quyết cho phép Nhật Bản sử dụng quyền “tự vệ tập thể” (collective self defence) đã được thông qua. Điều này đồng nghĩa với việc Nhật Bản không còn bị ràng buộc bởi điều 9 của Hiến pháp chủ hòa. Từ đây, Nhật Bản từ chấp nhận quyền tự vệ (sử dụng vũ lực với mức độ tối thiểu) khi bị tấn công đã có thể chủ động bảo vệ đồng minh khỏi các mối đe dọa từ bên ngoài lãnh thổ. Động thái này được xem là một cuộc cách mạng cả trong chính trị đối nội, và đối ngoại của Nhật.

Theo cách giải thích mới, quân đội Nhật Bản sẽ có thể trợ giúp trong trường hợp quân đội Mỹ bị tấn công bởi một kẻ thù chung, ngay cả khi Nhật Bản không phải là đối tượng của cuộc tấn công đó. Việc giải thích lại Hiến pháp vừa là động thái ôn hòa khả dĩ mà ông Abe có thể tìm đến như một cứu cánh trong bối cảnh an ninh Đông Bắc Á đang như chỉ mành treo chuông.

Khao khát khôi phục vị thế “cường quốc bình thường” đã buộc Nhật phải toan tính kỹ lưỡng. Những động thái của Trung Quốc gia tăng căng thẳng tại Biển Đông và Hoa Đông từ năm 2007 đến nay chính là “phép thử” cho ông Abe. Nhật Bản đã nhanh chóng chớp lấy cơ hội khi lợi dụng “lực cản” từ Trung Quốc để tạo “lực đẩy” cho ý thức tự chủ, ý nguyện an ninh và nhu cầu tăng tường quan hệ đồng minh chiến lược Mỹ – Nhật.

Thực tế, Nhà Trắng cũng đã “bật đèn xanh” cho Nhật khi Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ Jen Psaki tuyên bố vào cuối tháng 6/2014 rằng luôn “khuyến khích Nhật Bản trang bị quyền tự vệ cho họ một cách minh bạch và sẽ vẫn hợp tác với nhau về những vấn đề quan trọng khác”.

Liên minh hàng hải Nhật Bản – Việt Nam – Philippines

Qua việc “diễn dịch lại hiến pháp ”, thông điệp mà Nhật truyền đi cho Trung Quốc hẳn sẽ là “con giun xéo lắm cũng quằn”. Mặc dầu giải pháp quân sự cần hội tụ đủ 3 điều kiện [(i) một đe dọa thực sự với nhà nước Nhật Bản, (ii) mối nguy hiểm rõ ràng tới quyền sống, tự do, theo đuổi hạnh phúc người dân Nhật, và (iii) không còn một giải pháp thay thế nào khác], nhưng rõ ràng đây là một nổ lực mang tính quyết đoán của nội các Thủ tướng Abe. Từ sự quyết đoán của Nhật, những quốc gia như Việt Nam và Philippines sẽ có thể xem đây là gợi mở để có cách tiếp cận quả quyết và khéo léo hơn với Trung Quốc xung quanh vấn đề Biển Đông, đặc biệt trong việc hình thành một liên minh hay hợp tác về an ninh hành hải.

Trong hợp tác này, Nhật Bản là nước duy nhất có đủ khả năng để hỗ trợ cho Việt Nam và Philippines những trang bị kỹ thuật nhanh nhất, kịp thời nhất cho việc đảm bảo an ninh hàng hải, đồng thời điều này phù hợp với một chiến lược lâu dài của Nhật Bản nhằm tăng cường vai trò của mình.

Hiện nay, Việt Nam và Nhật Bản đang có mối quan hệ ngày càng sâu sắc với nhiều chuyến thăm cấp cao từ hai phía trong thời gian qua. Việt Nam là nước không có mâu thuẫn về lãnh thổ với Nhật Bản, sẵn sàng chia sẻ quan điểm với Nhật Bản trên nhiều vấn đề. Nhật Bản mong muốn nhận được sự ủng hộ tích cực từ các nước trong khu vực về mặt chính trị. Từ tầm nhìn đó, có ý kiến cho rằng khi quyền phòng thủ tập thể được áp dụng, Nhật Bản có thể trợ giúp Việt Nam trước động thái cứng rắn của Trung Quốc.

Do đó, trong chiến lược sắp tới Tokyo có thể sẽ từng bước hỗ trợ và hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực an ninh. Trong đó điểm bắt đầu là tăng cường năng lực của Việt Nam trong việc đảm bảo an ninh hàng hải tại tuyến đường “sinh mệnh” trên biển của Nhật Bản bằng việc huấn luyện lực lượng bảo vệ bờ biển và chia sẻ thông tin, cung cấp các tàu tuần duyên cho lực lượng cảnh sát biển, kiểm ngư Việt Nam.

Philippines cũng đang có cùng một nỗi lo ngại với Việt Nam và Nhật Bản. Hiện nay quan hệ giữa hai nước đang thực sự khởi sắc trong quan hệ chiến lược. Với sự cầm quyền trở lại của Thủ tướng Shinzo Abe, Nhật Bản đang thực hiện hình ảnh về một cường quốc “toàn diện” trong khu vực và Philippinescó thể đóng một vai trò quan trọng trong chiến lược đó. Trong khi đó, Manila đang đẩy mạnh quan hệ đối tác với các đồng minh trong khu vực, bao gồm cả Nhật Bản, nhằm tăng cường tiềm lực quốc phòng của mình, đồng thời nước này còn ủng hộ mạnh mẽ Nhật Bản tái vũ trang, thoát khỏi ràng buộc của Hiến pháp hòa bình để trở thành một yếu tố cân bằng quan trọng trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Những bước đi cụ thể

Việc chuyển giao 10 tàu tuần tra mới cho Philippines là một phần chiến lược của Nhật Bản nhằm tăng cường sức mạnh hàng hải. Mặc dù nó sẽ không làm nghiêng quá mức cán cân hải quân ở Biển Đông nhưng nó sẽ giúp nâng cao vị thế chiến lược của Nhật Bản tại Đông Nam Á.

Lực lượng Bảo vệ Bờ biển của Philippines có thể giúp Nhật Bản bằng cách giám sát các hoạt động hàng hải của Trung Quốc ở Biển Đông. Đối với Nhật Bản, Biển Đông là một trường hợp thử nghiệm về cách hành xử của Trung Quốc trong cuộc tranh chấp Senkaku/ Điếu Ngư. Hơn nữa, Nhật Bản thấy rằng bằng cách tăng số lượng tàu có sẵn mà Philippines có thể sử dụng trong bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, sự tập trung và nguồn lực của các cơ quan hàng hải Trung Quốc sẽ có khả năng bị phân tán giữa biển Hoa Đông và Biển Đông. Ngoài ra, tăng cường năng lực cho các lực lượng biển không được trang bị tốt của Philippines cũng sẽ cho phép nước này đóng góp vào việc bảo vệ tự do hàng hải ở Biển Đông.

Song song với hợp tác an ninh hàng hải với Nhật Bản, Việt Nam và Philippines đang tiến hành những bước đi cần thiết để thắt chặt quan hệ. Trong chuyến thăm làm việc của Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng tại Philippinesvà dự Diễn đàn Kinh tế thế giới về Đông Á 2014 (WEF Đông Á 2014), Tổng thống Aquino khẳng định: “Hai nước đã đối mặt với thách thức chung với tư cách là quốc gia biển và thành viên của ASEAN. Việc tăng cường hợp tác giữa Philippines và Việt Nam sẽ cho phép chúng ta bảo vệ tốt hơn các nguồn lợi thủy sản của mình. Chúng ta tiếp tục theo đuổi các chiến lược giúp tăng trưởng và vì lợi ích của người dân và khu vực”.

Còn Thủ tướng Việt Nam đã phát biểu rằng: “Chúng tôi cũng tái khẳng định hợp tác biển là một trụ cột trong quan hệ hai nước; nhất trí tiếp tục thường xuyên trao đổi, phối hợp, hợp tác có hiệu quả tại các cơ chế song phương như Ủy ban Hỗn hợp về hợp tác biển và đại dương, nhóm chuyên gia pháp lý về các vấn đề hợp tác trên biển; thúc đẩy hợp tác trong nghiên cứu khoa học biển, khí tượng, thủy văn và bảo vệ môi trường biển”.

Ngoài ra, trước những thách thức nghiêm trọng từ phía Trung Quốc, đã có những ý kiến về việc thành lập một liên minh pháp lý, nâng cấp quan hệ song phương Việt Nam – Philippines lên mức đối tác chiến lược, hợp tác quân sự thông qua việc cho mượn hoặc mua một số các vũ khí đã qua sử dụng, hay đào tạo nhân sự và diễn tập quân sự chung giữa Nhật và Việt Nam, Philippines.

Nhưng quan trọng nhất trong bối cảnh một Trung Quốc trỗi dậy “không hòa bình” là các quốc gia chị ảnh hưởng đang cần một cuộc cách mạng về tư duy trong việc nhìn nhận và đánh giá lại các mối quan hệ trong khu vực và quốc tế. Trước nhiều thách thức về an ninh, đặc biệt là an ninh hàng hải, xuất phát từ mối đe dọa Trung Quốc, việc củng cố quan hệ Việt Nam – Nhật Bản – Philippines về cả chính trị, quân sự và pháp lý đã trở nên vô cùng cấp thiết.

Hà Văn Long tốt nghiệp cử nhân ngành Quốc Tế Học, trường ĐHKHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội. Huỳnh Tâm Sáng tốt nghiệp cử nhân ngành Quan Hệ Quốc Tế, trường ĐHKHXH&NV, Đại học Quốc gia TpHCM. Cả hai hiện đang là nghiên cứu viên độc lập chuyên về chính sách an ninh-quốc phòng của Nhật Bản và Trung Quốc tại Đông Nam Á.