Nguồn: “After the coup, Turkey turns against America”, The Economist, 18/07/2016
Biên dịch: Nguyễn Ngọc Tường Ngân
Các phương tiện truyền thông Thổ Nhĩ Kỳ và thậm chí các quan chức chính phủ cáo buộc Mỹ dính líu vào âm mưu đảo chính.
Từ những năm 1960, bất cứ khi nào các tướng lĩnh Thổ Nhĩ Kỳ trỗi dậy nắm quyền lực, người dân Thổ Nhĩ Kỳ đều cáo buộc Mỹ phải chịu trách nhiệm. Sau cuộc đảo chính bất thành vào ngày 15 tháng 7 của một nhóm các tướng lĩnh cấp trung và các sĩ quan cấp thấp, phản xạ cũ lại xuất hiện trở lại. Bộ trưởng Lao động của Thổ Nhĩ Kỳ, Suleyman Soylu, tuyên bố rằng Mỹ đứng đằng sau các nỗ lực lật đổ vị Tổng thống theo chủ nghĩa Hồi giáo của đất nước, Recep Tayyip Erdogan. (Ông mơ hồ trích dẫn những “hoạt động” của các tạp chí Mỹ giấu tên làm bằng chứng.) Các phương tiện truyền thông ủng hộ chính phủ thì sử dụng các thuyết âm mưu. Trong một bài báo trên nhật báo Yeni Safak, Aydin Unal, một nghị sĩ Đảng Công lý và Phát triển (AK) của ông Erdogan, cho rằng các sĩ quan quân đội Mỹ đã tham gia vào đảo chính. Trong những thập niên trước, những cáo buộc như thế có thể bị bỏ qua. Nhưng lần này chúng là một phần của một cuộc khủng hoảng ngoại giao ngày càng nghiêm trọng hơn.
Phản ứng từ John Kerry, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, cứng rắn một cách khác thường. Trong cuộc điện thoại cho người đồng cấp Thổ Nhĩ Kỳ Mevlut Cavusoglu vào ngày 16 tháng 7, ông Kerry nói rằng các lời bóng gió cáo buộc Mỹ đóng vai trò trong cuộc đảo chính là “hoàn toàn sai trái và có hại cho quan hệ song phương của chúng ta”. Phát biểu với một kênh tin tức của Mỹ ngày hôm sau, ông Kerry cảnh báo ông Erdogan không nên sử dụng cuộc đảo chính như một cái cớ để đàn áp các đối thủ trong nước. Một cuộc thanh trừng rộng rãi, ông Kerry nói, “sẽ là một thách thức lớn cho mối quan hệ của ông với châu Âu, NATO và tất cả chúng ta”.
AK không để ý đến lời khuyên của ông Kerry. Hơn 7.000 người đã bị giam giữ và hàng ngàn thẩm phán và các quan chức khác đã bị thanh trừng. Ít nhất 11 cổng thông tin trực tuyến liên quan tới phe đối lập đã bị đóng cửa. Nhưng nguồn mâu thuẫn lớn nhất là sự hiện diện tại Mỹ của Fethullah Gulen, một giáo sĩ đứng đầu một giáo phái Hồi giáo bí mật, và người mà chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ cáo buộc là chủ mưu của cuộc đảo chính bất thành.
Từ năm 1999 ông Gulen đã tự sống lưu vong tại vùng nông thôn Pennsylvania. Trong nhiều năm qua, ông Erdogan đã cáo buộc vị giáo sỹ này, vốn từng là đồng minh của ông trong cuộc chiến nhằm cắt giảm quyền lực của quân đội, là đã tìm cách lật đổ chính phủ của ông. Thổ Nhĩ Kỳ yêu cầu Mỹ bàn giao Gulen. Tuy nhiên, Thổ Nhĩ Kỳ vẫn chưa chính thức yêu cầu dẫn độ vị giáo sĩ; các hồ sơ, dài hơn 1.000 trang, vẫn chưa được dịch hoàn toàn sang tiếng Anh. Các nhà ngoại giao phương Tây nghĩ nó sẽ đầy những cáo buộc lạ lùng, theo kiểu thuyết âm mưu, và rằng các công tố viên nhà nước sẽ bác bỏ chúng. Đáp lại, ông Erdogan có lẽ sẽ tăng cường luận điệu chống Mỹ của mình. Thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ Binali Yildirim đã cảnh báo rằng việc Mỹ yêu cầu cung cấp “bằng chứng” trước khi trục xuất ông Gulen sẽ khiến tình hữu nghị giữa Mỹ và Thổ Nhĩ Kỳ bị nghi ngờ.
Điều đó sẽ không có gì mới. Quan hệ của Thổ Nhĩ Kỳ với Mỹ đã thường xuyên trải qua thăng trầm kể từ năm 1952, khi Thổ Nhĩ Kỳ trở thành thành viên đầu tiên của NATO nơi người Hồi giáo chiếm đa số. Lúc đó, Thổ Nhĩ Kỳ được đánh giá cao như một đồng minh chống lại Liên Xô. Ngày nay, quốc gia này được xem như một vùng đệm giữa châu Âu và Trung Đông, nơi có các chiến binh thánh chiến sẵn sàng giết người cùng hàng triệu người tị nạn Syria. Và việc duy trì tiếp cận căn cứ không quân Incirlik của Thổ Nhĩ Kỳ có vai trò rất quan trọng trong các nỗ lực chiến tranh do Mỹ đứng đầu nhằm chống lại Nhà nước Hồi giáo (IS). Một số quan chức phương Tây lo ngại rằng Thổ Nhĩ Kỳ sẽ đóng cửa căn cứ này nếu Mỹ từ chối bàn giao ông Gulen.
Quan hệ của Thổ Nhĩ Kỳ với Mỹ đã căng thẳng từ trước bởi sự ủng hộ của Mỹ đối với các nhóm dân quân người Kurd ở Syria được gọi là Các Đơn vị Bảo vệ Nhân dân (YPG). Các YPG được nhiều người coi là lực lượng chiến đấu hiệu quả nhất chống lại IS ở Syria, nhưng họ lại có liên hệ chặt chẽ với Đảng Công nhân người Kurd (PKK), một phong trào du kích bị đặt ra ngoài vòng pháp luật vốn chiến đấu chống lại nhà nước Thổ Nhĩ Kỳ trong nhiều thập niên qua để giành quyền tự chủ cho người Kurd, và đã thực hiện nhiều cuộc tấn công khủng bố. Thổ Nhĩ Kỳ cũng coi các YPG là khủng bố, và đã nhiều lần yêu cầu Mỹ từ bỏ họ, nhưng tất cả đều bị Mỹ làm ngơ.
Từ quan điểm của Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ chưa bao giờ cam kết đầy đủ đối với cuộc chiến chống lại các nhóm Hồi giáo cực đoan ở Syria. Trong nhiều năm qua, người Mỹ đã ép Thổ Nhĩ Kỳ phải làm nhiều hơn nữa để ngăn chặn các chiến binh thánh chiến vào và ra khỏi Syria để tham gia hoặc thực hiện các nhiệm vụ cho IS và các nhóm Hồi giáo khác. Thổ Nhĩ Kỳ có lợi ích khi thực hiện những việc này. IS đã thực hiện nhiều vụ tấn công khủng bố lớn bên trong Thổ Nhĩ Kỳ, trong đó có vụ đánh bom tự sát tại sân bay Ataturk hồi tháng 6 tại Istanbul. Nhiều người nghi ngờ IS sẽ lại tấn công lần nữa.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ash Carter không giấu diếm sự chán ghét của mình dành cho vị Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ. Các lời kêu gọi thay thế căn cứ Incirlik bằng một căn cứ khác ở khu vực đang ngày càng gia tăng trong Quốc hội Mỹ. Trong khi đó, dù ông Gulen có thể đe dọa sự ổn định của Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng không nghiêm trọng đến mức giống như những chiến binh thánh chiến cả trong và ngoài nước này. Thổ Nhĩ Kỳ đang cần quan hệ hữu nghị với Mỹ hơn bao giờ hết. Thay vào đó, trong một sự hoang tưởng cực đoan hậu đảo chính, ông Erdogan đang đặt toàn bộ mối quan hệ liên minh giữa hai nước vào rủi ro.
Xem thêm:
[efb_likebox fanpage_url=”DAnghiencuuquocte” box_width=”420″ box_height=”” locale=”en_US” responsive=”0″ show_faces=”1″ show_stream=”0″ hide_cover=”0″ small_header=”0″ hide_cta=”0″ ]