Nguồn: Marsh Carter, “At Quang Nam, a Raid and a Reckoning”, The New York Times, 24/01/2017.
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng | Biên tập: Lê Hồng Hiệp
Tháng 01/1967, tôi 26 tuổi, là Đại úy Thủy quân lục chiến Mỹ, chỉ huy một đại đội súng trường 224 người – Đại đội C, Tiểu đoàn I, Trung Đoàn I, Sư Đoàn I – đóng quân gần Đà Nẵng, gần biên giới với Bắc Việt Nam. Khi ấy, tôi đã ở đó được bốn tháng và đã dần có kinh nghiệm với các trận đánh nhỏ. Ở trong một đại đội súng trường – rõ ràng là mũi nhọn trong lưỡi dao chính sách của Mỹ – không tồn tại nhiều tư duy chiến lược. Những nhiệm vụ chiến thuật hàng ngày, được thiết kế để giúp chúng tôi đạt được các mục tiêu quân sự, đã chi phối hoạt động của đại đội.
Cuộc sống hàng ngày chỉ xoay quanh những cuộc tuần tra nhỏ và liên tục của các nhóm 15 đến 45 người, với nhiệm vụ tìm và diệt hoặc bắt sống du kích Việt Cộng. Chúng tôi thường lập ra một khu trại có thể được phòng vệ bởi một phần ba đại đội; những người còn lại sẽ đi tuần tra, hoặc nếu là mùa gặt, thì đảm bảo an ninh cho nông dân trong làng.
Chúng tôi dùng mũ nồi để lấy nước tắm gội và ăn các suất ăn chiến trường làm từ đồ hộp, không cần phải nấu hay hâm nóng. Các thực phẩm này được tăng cường protein; ba bữa ăn chính mỗi ngày cung cấp khoảng 3.500 calo. Cứ vài ngày, xe bọc thép sẽ lại đem đến cho chúng tôi thức ăn, quần áo sạch và thư tín, cũng như đạn dược, lựu đạn, mìn sát thương, kẽm gai, túi cát và các phụ tùng thay thế cho vũ khí bị hỏng.
Đại đội chúng tôi chịu trách nhiệm về an ninh ở một huyện rộng khoảng 10 dặm vuông và thực hiện mọi công việc, gồm chăm sóc y tế cho người dân, hỗ trợ lính địa phương, lực lượng cảnh sát và quân đội thường trực của Việt Nam (Cộng hòa). Nhưng nhiệm vụ chính của chúng tôi là tìm kiếm Việt Cộng. Và một trong những chìa khóa cho các hoạt động này là sự di động: Chúng tôi mang tất cả mọi thứ mình cần trên lưng.
Đầu năm 1967, tôi cảm tưởng rằng chiến tranh đang bước sang một giai đoạn nguy hiểm mới. Chúng tôi đã gặp những toán lính chiến Bắc Việt đi theo đường mòn Hồ Chí Minh bắt đầu từ giữa năm 1965, sau khi Tổng thống Lyndon B. Johnson tuyên bố ông không có kế hoạch xâm lăng miền Bắc. Vậy nên thách thức của đại đội lại càng nhân lên: Chúng tôi phải đối mặt với lính du kích Việt Cộng – những người là mối đe dọa đáng kể đối với thường dân – đồng thời phải sẵn sàng tham gia vào các trận đánh truyền thống với các đơn vị chính quy Bắc Việt. Mục tiêu của Hồ Chí Minh vẫn luôn là thống nhất đất nước, và ông cần binh lính chính quy của mình ở miền Nam chống lại các chiến thuật tấn công của Mỹ và lực lượng Việt Nam Cộng Hòa.
Leo thang chiến tranh đã trở nên rõ ràng vào giữa tháng 1, khi đại đội của tôi được giao nhiệm vụ nằm ngoài khu vực hoạt động bình thường của chúng tôi — đột kích vào một ngôi làng của kẻ thù và là an toàn khu nơi hơn 100 chỉ huy Việt Cộng dự dịnh sẽ nhóm họp. Vài ngày trước đó, một giao liên địch đã bị giết trong một cuộc phục kích; các tài liệu của anh ta cho thấy buổi họp sẽ được tổ chức vào trưa ngày 14/01 tại làng Ban Lãnh, tỉnh Quảng Nam. Khai thác tình báo một cách nhanh chóng và khả năng đưa lính vào địa bàn căn cứ của đối phương là hai nguyên tắc của các chiến dịch chống du kích. Để giết hoặc bắt giữ được nhiều du kích nhất, chiến dịch này sẽ phải làm cả hai điều đó.
Vì vậy, vào trưa ngày 14/01/1967, 176 thành viên của đại đội đã lên 12 trực thăng và bay đến khu vực được chỉ định. Khoảng 20 phút sau, chúng tôi đã lọt vào một “điểm nóng”. Toàn bộ trực thăng đều bị bắn khi chuẩn bị hạ cánh để thả chúng tôi xuống, và vẫn tiếp tục bị bắn cho đến khi chúng cất cánh trở lại.
Sau đó chúng tôi bắt đầu nhiệm vụ của mình, chiến đấu để tìm đường vào làng, trong khi máy bay Mỹ tiến hành không kích, xả súng và phun khói để kiềm chân kẻ thù. Đó là một ngôi làng đã được tăng cường; mỗi nhà đều có các vị trí chiến đấu và các hầm trú ẩn, và cả làng được bảo vệ bởi các lũy tre vốn làm hạn chế sự di chuyển của chúng tôi.
Ngay trong thời kỳ Chiến tranh Đông Dương chống Pháp (1946-1954) nơi này đã được coi là một thành trì của Cộng sản. Khi chúng tôi tấn công và bắt đầu có thương vong, thì chúng tôi nhận thấy rõ ràng là lực lượng địch lớn hơn nhiều so với dự đoán; chúng tôi cần nhanh chóng hoàn thành sứ mệnh rồi rút quân. Tôi vẫn nhớ rõ lúc nhìn về các ngọn núi ở phía tây nam — tôi biết rằng quân địch có lực lượng yểm trợ ẩn náu trên những ngọn núi đó, vì chúng nằm ngoài khu vực mà người Mỹ đã đánh dấu để bình định.
Toàn đại đội đều bị ấn tượng trước mức độ kỷ luật, quyết tâm và sự hung hãn của kẻ thù. Vài tuần sau, chúng tôi mới biết rằng khu vực này đã được bảo vệ không chỉ bởi Việt Cộng mà còn bởi các đơn vị lớn thuộc Quân đội Bắc Việt, khi họ thấy chỉ có 12 trực thăng thả quân xuống, họ đã bắt đầu tăng viện cho ngôi làng. Chính vào lúc ấy, chương trình huấn luyện thủy quân lục chiến và lập kế hoạch tiền chiến đấu của chúng tôi đã phát huy hiệu quả – khi các chỉ huy cấp thấp bị thương, các hạ sĩ và trung sĩ của họ đã tiếp quản mà không hề nao núng.
Chịu hỏa lực mạnh nhưng cuối cùng chúng tôi cũng đến được điểm hẹn – đó là một ngôi chùa, vào khoảng 4 giờ chiều, nhưng lúc đó thì gần như tất cả các chỉ huy Việt Cộng đều đã sơ tán. Chẳng còn việc nào khác ngoài tập hợp lại để rút quân. Chúng tôi đã phải hứng chịu nhiều thương vong trên đường mòn và trong làng, và phải mất thời gian để gom đủ những người thương vong. Thậm chí đã có lúc, một người trong số chúng tôi đã phải bò dưới làn đạn của kẻ thù để cứu một người lính khác bị thương.
Cuối cùng, chúng tôi đã giết hơn 50 lính Bắc Việt và bắt giữ một cán bộ cấp cao. Khi gọi trực thăng đến đón 32 người lính bị thương và 5 người khác đã chết, chúng tôi cần các cuộc không kích để chặn kẻ địch và để bảo vệ máy bay trực thăng. Chúng tôi biết rằng mình không thể ở lại qua đêm vì chúng tôi thiếu đạn, và đang không ở trong khu vực mà chúng tôi có thể được các đơn vị thủy quân lục chiến khác tiếp viện.
Vào thời điểm đó trong cuộc chiến, chúng tôi vẫn tự tin rằng mình có thể đánh bại lính du kích và các đơn vị quân đội Bắc Việt. Nhưng rõ ràng là chính phủ miền Nam đã không làm đủ để loại bỏ các nguyên nhân gây ra nổi dậy, hoặc những điều kiện khiến nhiều người Việt Nam muốn sống dưới chế độ cộng sản. Sau đó, khi tôi có một thời gian để nghĩ về chiến lược, một suy nghĩ khó chịu bất ngờ xuất hiện: Chúng ta có thể thắng trên chiến trường, nhưng liệu chừng đó có đủ để giành chiến thắng trong cuộc chiến?
Tôi tự hào được phục vụ trong lực lượng Thủy quân lục chiến tại Việt Nam, và tôi tin tưởng vào sứ mạng của mình. Sau này, tôi đã có một sự nghiệp 35 năm trong lĩnh vực tài chính, bao gồm các vị trí như Giám đốc Điều hành một công ty thuộc danh sách Fortune 500 và Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Giao dịch Chứng khoán New York. Nhưng tôi chưa bao giờ cảm thấy mình có nhiều trách nhiệm như khi là chỉ huy của 224 lính thủy quân lục chiến của Đại đội C, những người đã đặt niềm tin của họ vào khả năng lãnh đạo của tôi và giao phó cho tôi sinh mạng của họ.
Marsh Carter tốt nghiệp trường West Point. Ông đã từng làm sĩ quan Thủy quân Lục chiến hai năm ở Việt Nam. Ông còn là cựu Giám đốc Điều hành State Street Bank and Trust và cựu Chủ tịch Tập đoàn Giao dịch Chứng khoán New York (New York Stock Exchange Group) từ năm 2005 đến năm 2013.
Xem thêm: Các bài khác trong series Vietnam 1967
[efb_likebox fanpage_url=”DAnghiencuuquocte” box_width=”420″ box_height=”” locale=”en_US” responsive=”0″ show_faces=”1″ show_stream=”0″ hide_cover=”0″ small_header=”0″ hide_cta=”0″ ]