Chiến lược kinh tế của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương

Nguồn: Matthew P. Goodman, Scott Miller & Amy Searight, “U.S. Economic Strategy in the Asia Pacific“, CSIS, 10/2017.

Biên dịch: Trần Quang

Giới thiệu 

Tháng 1/2017, Ủy ban chiến lược kinh tế châu Á CSIS lưỡng đảng đã công bố một báo cáo khuyến nghị rằng Chính phủ Mỹ dưới thời Donald Trump nên thông qua một chiến lược kinh tế toàn diện đối với khu vực châu Á-Thái Bình Dương năng động. Báo cáo đó, mang tên Củng cố chiến lược kinh tế của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương, đã phác thảo các xu hướng kinh tế lớn định hình khu vực, biện luận ủng hộ sự lãnh đạo của Mỹ trong các vấn đề khu vực, và đặt ra một chiến lược toàn diện để đảm bảo thế kỷ Thái Bình Dương của Mỹ. 

Bài viết tiếp sau đó được các học giả CSIS chuẩn bị với đóng góp của một loạt chuyên gia và xây dựng trên công trình của Ủy ban này. Nó đã được chuẩn bị trước chuyến đi đầu tiên của Tổng thống Donald Trump đến khu vực vào tháng 11/2017 để dự hội nghị các nhà lãnh đạo diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) và Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS). Nó cập nhật các diễn biến trong khu vực kể từ khi Donald Trump nhậm chức và đưa ra các khuyến nghị mục tiêu để thúc đẩy các lợi ích của Mỹ trong chuyến đi của tổng thống Mỹ và trong các tháng sau đó.

Ở trung tâm của nỗ lực này là niềm tin rằng Mỹ có những lợi ích kinh tế và chiến lược sống còn ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương mà đòi hỏi phải có sự can dự của Chính phủ Mỹ. Các nước dọc bờ biển Thái Bình Dương đại diện cho hơn một nửa các nền kinh tế nghìn tỷ USD và mỗi năm Mỹ xuất khẩu hơn 750 tỷ USD sang các nước châu Á và Thái Bình Dương, một động lực mạnh mẽ cho tăng trưởng và việc làm ở Mỹ. Một châu Á-Thái Bình Dương ổn định, đặc trưng với những thị trường tự do và mở cửa, hứa hẹn gia tăng sự thịnh vượng và an ninh trong tương lai của nước Mỹ.

Các tác giả cũng tin rằng số phận sự lãnh đạo của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương nằm trong tay Mỹ – hay nói cách khác, những báo cáo về sự suy tàn của Mỹ đã bị thổi phồng quá mức. Mỹ vẫn là một đối tác thương mại và đầu tư sống còn đối với nhiều nước ở châu Á, không chỉ là thị trường tiêu dùng lớn nhất thế giới mà còn cung cấp hàng hóa và dịch vụ chất lượng cao, kiến thức then chốt và vốn. Mỹ từ lâu đã có một cam kết vững chắc với các đối tác liên minh của mình và với việc duy trì trật tự an ninh hiện tại của châu Á-Thái Bình Dương, đem lại yếu tố cốt tử cho nền hòa bình và ổn định khu vực. Và, với tư cách nền dân chủ lâu đời nhất thế giới và là nước lãnh đạo toàn cầu giàu kinh nghiệm, Mỹ sở hữu một khả năng không ai sánh kịp là huy động các nước khác ủng hộ những mục tiêu chung.

Tuy thế, như Ủy ban chiến lược kinh tế châu Á lưu ý trong báo cáo hồi tháng 1 của mình, bối cảnh ở châu Á-Thái Bình Dương đang thay đổi nhanh chóng – thường theo những cách không có lợi cho lợi ích của Mỹ. Đây một phần là kết quả của những bước đi của chính Mỹ, như quyết định của Tổng thống Trump rút khỏi Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), cũng như những tín hiệu lẫn lộn gửi tới các đồng minh của Mỹ. Một phần đây là kết quả của những xu hướng dài hạn hơn, kể cả sự nổi lên của Trung Quốc với tư cách là một nước lớn, những tác động không dự đoán trước được của tiến bộ công nghệ về các hình mẫu phát triển kinh tế, và một viễn cảnh nhân khẩu ngày càng thay đổi khắp khu vực, từ bùng nổ dân số trẻ đến tình trạng siêu già hóa.

Bất chấp những thách thức này, các tác giả tin chắc rằng một chiến lược kinh tế toàn diện và được thực hiện thận trọng của Mỹ đối với khu vực châu Á-Thái Bình Dương sống còn có thể định hình những xu hướng này có lợi cho các lợi ích dài hạn của Mỹ và hướng nó về tương lai ổn định, thịnh vượng hơn cho tất cả. Các tác giả trình bày bài viết và những khuyến nghị dưới đây theo tinh thần này.

Một bối cảnh đang phát triển 

Châu Á-Thái Bình Dương vẫn là khu vực kinh tế năng động nhất thế giới. Kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, quy mô kinh tế của khu vực đã tăng gấp 3 lần, và thương mại giữa châu Á và Mỹ đã tăng hơn 200%. Bên cạnh đầu tư gia tăng từ các nước châu Á và Thái Bình Dương, hoạt động này hỗ trợ tạo công ăn việc làm đáng kể ở mọi nước – và khi khu vực tiếp tục tăng trưởng, có tiềm năng hỗ trợ thậm chí nhiều hơn.

Trong khi những cơ hội thương mại và đầu tư ở châu Á-Thái Bình Dương vẫn là to lớn, Mỹ đã phải đối mặt với một môi trường ngày càng thách thức trong khu vực những năm gần đây. Những căng thẳng gia tăng về các chương trình tên lửa và vũ khí hạt nhân của Triều Tiên đã khiến khu vực lo ngại. Ở Biển Đông, Trung Quốc đã tiếp tục xây dựng các đảo nhân tạo bất chấp luật pháp quốc tế. Và bất chấp tăng trưởng bền vững và mạnh mẽ, các xu hướng kinh tế trong khu vực không thuận lợi cho lợi ích của Mỹ. Trong khi Quỹ tiền tệ quốc tế dự báo tăng trưởng hằng năm ở châu Á đang phát triển vẫn trên 6% trong trung hạn, những rủi ro bất lợi với viễn cảnh này đã tăng lên, nhất là rủi ro chủ nghĩa bảo hộ ngày càng tăng và sự bất ổn tài chính.

Các chính sách công nghiệp và thương mại trọng thương tiếp tục phát triển trong khu vực. Đặc biệt, Trung Quốc đã tăng cường các chính sách từ chối cơ hội thị trường cho các công ty Mỹ, hỗ trợ những công ty hàng đầu trong nước và bóp méo các thị trường toàn cầu. Bắc Kinh đã ngày càng cho thấy rằng họ đã sẵn sàng nhắm mục tiêu vào các ngành công nghiệp của tương lai và cạnh tranh trực tiếp với Mỹ cho sự lãnh đạo công nghệ toàn cầu. Được thông qua năm 2013, kế hoạch “Sản xuất ở Trung Quốc năm 2025” của Bắc Kinh tiết lộ tham vọng của họ đưa Trung Quốc lên cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu bằng mọi cách cần thiết, kể cả trợ cấp, chuyển giao công nghệ bắt buộc và lạm dụng chính sách cạnh tranh. Nó được bổ sung vào tháng 7/2017 bằng việc công bố “Kế hoạch trí tuệ nhân tạo thế hệ mới”, đặt ra những mục tiêu đầy tham vọng cho việc phát triển trí tuệ nhân tạo của Trung Quốc cho đến năm 2030.

Trong khi đó, các luật và chính sách mới tiếp tục hạn chế hoạt động của các công ty Mỹ ở Trung Quốc. Chẳng hạn, việc thực hiện một luật an ninh mạng mới đã buộc Apple hồi tháng 7 phải công bố rằng họ sẽ mở trung tâm dữ liệu đầu tiên ở Trung Quốc. Sau đó vài ngày, công ty này đã lặng lẽ bỏ các mạng riêng ảo (VPN) khỏi kho ứng dụng của mình ở Trung Quốc dưới sức ép của chính phủ. Các hoạt động này không chỉ có hại cho sức khỏe của các ngành công nghiệp lâu đời của Mỹ, mà còn cho thấy một mối đe dọa cho những cơ hội xuất khẩu tương lai.

Trong bối cảnh này, các nước châu Á đã hành động để định hình cấu trúc thương mại khu vực mà không có Mỹ. Quyết định của Tổng thống Trump rút khỏi TPP đã thúc đẩy dàn xếp khu vực lớn khác, Quan hệ đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), đưa Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và các nền kinh tế tiên tiến châu Á-Thái Bình Dương lại với 10 nước thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Nếu thỏa thuận này được ký kết, nó có thể không chỉ tạo ra những tác động thương mại làm chệch hướng mà sẽ phải trả giá bằng công ăn việc làm và tăng trưởng cho nước Mỹ, mà còn củng cố các nguyên tắc kinh tế tiêu chuẩn thấp vốn sẽ làm nghiêng sân chơi cạnh tranh theo hướng bất lợi cho các công ty Mỹ.

Bất chấp việc Mỹ rút lui, TPP cũng đã tiếp tục mà không có Mỹ. Với Nhật Bản và Úc dẫn đầu, 11 nước ký kết còn lại đã gặp mặt vài lần và hoàn tất các cuộc đàm phán về sửa đổi thỏa thuận này vào thời điểm hội nghị cấp cao APEC diễn ra vào tháng 11/2017.

Ngoài ra, nhiều nước đã tiếp tục lại nỗ lực của họ hoàn thành các thỏa thuận thương mại song phương. Kết quả lớn nhất của những điều này là một thỏa thuận đối tác kinh tế gần như cuối cùng giữa Liên minh châu Âu và Nhật Bản. Trong số những điều khác, thỏa thuận này có thể bao gồm các nguyên tắc theo kiểu châu Âu về quyền riêng tư dữ liệu, cũng như chỉ dẫn địa lý cho thực phẩm và đồ uống có cồn, gây phương hại cho các công ty và nông dân Mỹ. Cùng nhau, những thỏa thuận này có khả năng làm xói mòn đáng kể tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu Mỹ và duy trì những nguyên tắc có hại cho lợi ích của Mỹ.

Ngoài thương mại, các nước châu Á đang thúc đẩy các tầm nhìn cạnh tranh về đầu tư cơ sở hạ tầng trên khắp siêu lục địa Á-Âu mà có thể có những ảnh hưởng lớn đối với các lợi ích thương mại và địa chính trị của Mỹ. Nổi bật nhất trong số này là Sáng kiến “Vành đai và Con đường” (BRI), theo đó Bắc Kinh đã hứa hẹn đầu tư hàng trăm tỷ USD vào đường bộ, đường sắt và cảng biển cho các nước láng giềng và xa hơn nữa. Vào tháng 5/2017, Bắc Kinh đã tổ chức một diễn đàn nổi bật thu hút các quan chức cấp cao từ hơn 130 nước, kể cả Mỹ. Theo sau đó là một cuộc họp vào tháng 6/2017 của cái gọi là nhóm “16+1”, đưa Trung Quốc và các nước ở Trung Âu cũng như Đông Âu lại với nhau. Các nỗ lực này đã báo hiệu những tham vọng trên lục địa của Bắc Kinh. Nhưng Trung Quốc không chỉ có một mình; các nước khác, kể cả Nhật Bản và Ấn Độ, đã đấu tranh cho tầm nhìn cơ sở hạ tầng của riêng họ. Thông qua những sáng kiến như Quan hệ đối tác mở rộng về cơ sở hạ tầng chất lượng, Nhật Bản đã thúc đẩy các tiêu chuẩn cao cho đầu tư cơ sở hạ tầng trong khu vực, trong khi Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi đã khởi động chính sách “Hành động phía Đông” của ông để thiết lập những quan hệ cơ sở hạ tầng gần gũi hơn với Đông Nam Á. Hồi tháng 5/2017, Modi thông báo một quan hệ đối tác với Nhật Bản gọi là Hành lang tăng trưởng Á-Phi, một sáng kiến để hội nhập tốt hơn các nền kinh tế của Ấn Độ Dương.

Những thay đổi này trong bối cảnh kinh tế và chính trị ở châu Á-Thái Bình Dương đã được Washington đón nhận bằng những tín hiệu lẫn lộn về hướng can dự của Mỹ vào khu vực. Sau khi rút khỏi TPP, Chính phủ Mỹ đã khởi động tiến trình tái đàm phán Thỏa thuận thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) với Canada và Mexico, với một loạt kết quả có khả năng xảy ra từ gia hạn thỏa thuận 23 năm tuổi này đến thêm vào các nghĩa vụ lao động và môi trường cho đến Mỹ rút khỏi thỏa thuận. Dù các quan chức chính quyền cấp cao đã cho thấy sự quan tâm của họ đến việc theo đuổi các thỏa thuận thương mại tự do song phương ở châu Á-Thái Bình Dương, chưa thỏa thuận nào được công bố. Ngược lại, Chính phủ Mỹ đã đe dọa rút khỏi thỏa thuận lớn nhất hiện có của khu vực, Thỏa thuận thương mại tự do Mỹ-Hàn (KORUS). Họ cũng đã làm dấy lên lo ngại sẽ có hành động thương mại đơn phương chống lại các nước châu Á theo luật thương mại của Mỹ, đáng chú ý nhất là mở các cuộc điều tra theo Khoản 232 của Đạo luật mở rộng thương mại năm 1962 và Khoản 301 của Đạo luật thương mại năm 1974 về tác động an ninh quốc gia của lần lượt là thép và nhôm nhập khẩu và chính sách chuyển giao công nghệ bắt buộc của Trung Quốc.

Tất cả điều này đang tạo ra sự không chắc chắn to lớn trong khu vực về chiều hướng của chính sách Mỹ. Trung Quốc đã nắm lấy sự không chắc chắn này bằng cách khẳng định vai trò của chính mình là nhà đấu tranh cho trật tự khu vực hiện tại. Bài phát biểu của Chủ tịch Tập Cận Bình tại Diễn đàn kinh tế thế giới Davos hồi tháng 1/2017 bảo vệ toàn cầu hóa dường như báo hiệu một sự “đổi gác” trước công chúng phương Tây. Đương nhiên, điều này trái ngược với động thái của Trung Quốc đều đặn tiến đến cách tiếp cận chính sách kinh tế mang tính trọng thương, tập quyền và cách nước này dùng biện pháp ép buộc kinh tế chống lại các nước khác và các tổ chức đa quốc gia. Tuy thế, khi không có sự lãnh đạo nhất quán của Mỹ, sức hấp dẫn của Trung Quốc, được hỗ trợ bằng những sáng kiến như BRI và Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB), có thể ngày càng được đón nhận trong khu vực.

Điều này cho thấy một trật tự kinh tế khu vực tương lai tiềm tàng mà ở đó các nguyên tắc và quy chuẩn do Bắc Kinh phác họa đang chiếm ưu thế, ở đó các nước từ bỏ những tiêu chuẩn cao mà Mỹ đã đấu tranh nhiều thập kỷ để duy trì, và ở đó các thị trường tự do và đa nguyên chính trị trên khắp khu vực bị xói mòn. Điều này không chỉ làm giảm tăng trưởng và cơ hội thương mại cho Mỹ và bóp méo các thị trường toàn cầu, nó còn khiến khó có thể giải quyết một loạt thách thức khu vực mà cuối cùng sẽ liên quan tới lợi ích của Mỹ, từ chiến đấu chống dịch bệnh lan tràn đến đưa số lượng thanh niên đô thị ngày càng lớn ở châu Á – nhiều người có nguy cơ bị cấp tiến hóa Hồi giáo – vào lực lượng lao động.

Tất cả điều này nhấn mạnh nhu cầu phải có sự can dự mạnh mẽ của Mỹ vào khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Trật tự kinh tế mà Mỹ đã bảo vệ kể từ cuối Chiến tranh thế giới thứ hai đã có lợi cho Mỹ, thúc đẩy tăng trưởng, tạo công ăn việc làm và thiết lập các nguyên tắc có lợi cho lợi ích của Mỹ. Với các chính sách đúng đắn và sự can dự lâu bền từ Washington, khu vực có tiềm năng lớn làm một thị trường cho các doanh nghiệp và người lao động Mỹ. Các đồng minh và đối tác chính trong khu vực, như Nhật Bản, Úc và Hàn Quốc, có thể mở rộng những nỗ lực của Mỹ và củng cố một trật tự khu vực hỗ trợ cho những tiêu chuẩn cao và thậm chí có thể tạo ra nhiều cơ hội hơn. Tuy nhiên, bối cảnh ở châu Á đang thay đổi nhanh chóng và sẽ không chờ đợi Mỹ. Rất khẩn thiết cần có một chiến lược toàn diện để tái lập sự lãnh đạo của Mỹ trong khu vực, đoàn kết các đối tác có cùng ý tưởng để theo đuổi những mục tiêu chung, và đẩy mạnh nhiều lợi ích của Mỹ tại đó.

Các yếu tố của một chiến lược 

Trong báo cáo hồi tháng 1/2017, Ủy ban chiến lược kinh tế châu Á đã lưu ý rằng bất kỳ chiến lược kinh tế nào về châu Á-Thái Bình Dương phải bắt nguồn từ những lợi ích chiến lược lâu dài của Mỹ trong khu vực: thúc đẩy hòa bình và ngăn chặn một bá quyền khu vực nổi lên, củng cố một trật tự kinh tế xuyên Thái Bình Dương dựa trên thị trường tự do và pháp trị, và hỗ trợ phổ biến các giá trị dân chủ.

Ủy ban cũng đã công nhận sự cần thiết phải có những nền tảng trong nước mạnh cho một chiến lược kinh tế ở nước ngoài hiệu quả của Mỹ. Sự can dự kinh tế của Mỹ trong khu vực có thể hỗ trợ tăng trưởng mạnh mẽ và toàn diện ở trong nước, nhưng chỉ khi đi kèm với chính sách cơ sở hạ tầng, thuế, quy định, giáo dục và các chính sách trong nước khác phù hợp. Việc công nhận những liên kết giữa các chính sách quốc tế và trong nước có thể bắt đầu giải quyết nhiều mối lo ngại của người Mỹ về vai trò của Mỹ trong nền kinh tế toàn cầu và thái độ nước đôi về sự can dự của Mỹ trong khu vực.

Ủy ban đã đề ra một số mục tiêu chiến lược cho việc can dự kinh tế vào khu vực: thúc đẩy tăng trưởng mạnh, bền vững, cân bằng và toàn diện; đảm bảo thị trường mở cho hàng xuất khẩu và nhà đầu tư Mỹ; hỗ trợ sự hội nhập khu vực thông qua thương mại nâng cao, các kết nối cơ sở hạ tầng và quan hệ tài chính; và hành động hướng tới một bộ quy tắc tiêu chuẩn cao cho nền kinh tế khu vực mà hỗ trợ cho những lợi ích của Mỹ.

Bất kỳ chiến lược thành công nào ở châu Á-Thái Bình Dương sẽ đều có chung những đặc điểm nhất định: Nó phải toàn diện, có một trọng tâm dài hạn, và được nêu rõ và thực hiện nhất quán.

Để có thể toàn diện, chiến lược này phải tính đến đầy đủ các lợi ích của Mỹ trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương và nhờ đến các công cụ sẵn có, làm cho phương tiện đáp ứng được mục đích. Nó sẽ kết hợp chiến lược kinh tế của Mỹ với chiến lược chính trị và an ninh lớn hơn về các vấn đề như cuộc khủng hoảng Triều Tiên và Biển Đông. Nó sẽ đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách ở mọi cấp và nhánh của chính phủ làm việc cùng nhau, với những cơ chế phối hợp hiệu quả ở Nhà Trắng. Điều đó cũng có nghĩa là làm việc chặt chẽ với các công ty và xã hội dân sự Mỹ, cũng như các đồng minh và đối tác trong khu vực và bên ngoài, đặc biệt là các nước chia sẻ những giá trị và ưu tiên chính của Mỹ như Nhật Bản, Australia và Hàn Quốc.

Chiến lược này phải dứt khoát tập trung vào xử lý các lợi ích của Mỹ vượt ra ngoài thời gian tại nhiệm của một chính quyền. Các nhà lãnh đạo ở châu Á nổi tiếng vì họ hoạch định chính sách hướng đến tương lai và đầu tư vào những yếu tố quyết định dài hạn trong thành công của họ, từ giáo dục đến cơ sở hạ tầng. Mỹ phải sánh được với tư duy của các nước đó. Chính sách của Mỹ phải giúp đặt nền tảng cho cả một nền kinh tế Mỹ cạnh tranh lẫn một trật tự khu vực tận dụng được lợi thế chiến lược của Mỹ.

Cuối cùng, chiến lược của Mỹ ở châu Á phải nhất quán trong thực tiễn và cách thể hiện. Là một cường quốc toàn cầu, Mỹ thường bị sao nhãng với những cuộc khủng hoảng ở các khu vực khác và chỉ can dự từng đợt với các vấn đề châu Á-Thái Bình Dương. Việc truyền thông điệp của Mỹ thường gay gắt hoặc không hiệu quả. Các đối tác và đối thủ cạnh tranh của Mỹ trong khu vực đang lắng nghe sát sao những dấu hiệu của sự thiếu vắng sức bền bỉ hay cam kết với lợi ích chung.

Khuyến nghị 

Trước chuyến đi châu Á tháng 11/2017 của Tổng thống Trump, Nhà Trắng phải bắt đầu đặt nền móng cho một chiến lược kinh tế hiệu quả cho khu vực. Chín tháng đầu của chính quyền là một thời kỳ thiếu chắc chắn cả ở Mỹ lẫn châu Á. Tuy nhiên, vào lúc này sự cần thiết phải có một chiến lược toàn diện của Mỹ vẫn rõ ràng giống như ngày 20/1/2017.

Các khuyến nghị dưới đây tập trung vào những bước đi cụ thể đầu tiên mà chính quyền có thể bắt đầu tiến hành từ lúc này cho đến hết năm 2018. Trọng tâm của Mỹ ở đây là vào khu vực châu Á-Thái Bình Dương nói chung. Tuy nhiên, công nhận tầm quan trọng của các chiến lược song phương hiệu quả đối với các nền kinh tế lớn trong khu vực, Mỹ sẽ đưa ra tư duy riêng rẽ về chính sách kinh tế của mình đối với Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Đông Nam Á và Hàn Quốc.

  1. Làm rõ một chiến lược rõ ràng để Mỹ can dự và lãnh đạo trong khu vực

Chính phủ Mỹ không thể bắt đầu xây dựng và tiến hành một chiến lược toàn diện về châu Á-Thái Bình Dương mà không có đường lối rõ ràng từ các cấp cao nhất của chính quyền. Cùng với chuyến đi của Tổng thống Trump đến khu vực, chính quyền nên công khai bắt đầu giải thích cho người dân Mỹ rằng châu Á-Thái Bình Dương mang tính then chốt đối với sự thịnh vượng và an ninh tương lai của Mỹ, và Mỹ cần phải tiếp tục can dự và dẫn dắt.

Chiến lược này cũng phải tính đến các đồng minh và đối tác của Mỹ ở châu Á, và phân biệt họ với những nước không chia sẻ lợi ích hay giá trị với Mỹ. Chính quyền phải làm rõ với các nước đó một tầm nhìn tích cực cho một trật tự xuyên Thái Bình Dương công bằng, cởi mở, dựa trên nguyên tắc mà hỗ trợ cho các lợi ích của Mỹ. Sự hỗ trợ từ các đồng minh và đối tác có tính then chốt đối với thành công trong chiến lược của Mỹ và với việc duy trì trật tự kinh tế khu vực vốn đã có lợi cho Mỹ trong 70 năm qua. Cuối cùng, Chính phủ Mỹ phải chuẩn bị đủ nguồn lực và nhân lực để thực hiện một chiến lược hiệu quả.

Các bước thực hiện cụ thể:

  1. Cùng với chuyến đi của ông đến khu vực, Tổng thống Trump nên có một bài phát biểu chủ yếu giải thích tầm quan trọng của châu Á-Thái Bình Dương đối với an ninh và sự thịnh vượng của Mỹ cũng như bao hàm các trụ cột trong chiến lược của chính quyền về khu vực.
  2. Sau chuyến đi của ông, Tổng thống Trump nên ngay lập tức lệnh cho các đội ngũ an ninh quốc gia và kinh tế của mình chuẩn bị chỉ thị chính sách tổng thống (PPD) về chiến lược của Mỹ với khu vực, với kinh tế là trọng tâm. Việc này sẽ định hướng và liên kết hoạt động của các cơ quan trong chính quyền và làm rõ chính sách kinh tế có thể hỗ trợ cho hòa bình và sự ổn định ở khu vực như thế nào. Thái Bình Dương
  3. Tăng gấp đôi nỗ lực làm việc với Quốc hội để đảm bảo rằng các vị trí chính trị được bổ nhiệm liên quan đến chính sách kinh tế và châu Á trên khắp chính phủ được đề cử và xác nhận sớm nhất có thể.
  4. Tham gia và huy động sự ủng hộ của khu vực tư nhân cũng như xã hội dân sự Mỹ đã ăn sâu trong các nền kinh tế châu Á-Thái Bình Dương.

2. Giành lại sự lãnh đạo về mở cửa thị trường và thiết lập quy tắc tiêu chuẩn cao trong khu vực 

Việc Mỹ lãnh đạo sự mở cửa các thị trường và thiết lập nguyên tắc cũng như tiêu chuẩn khu vực ở châu Á-Thái Bình Dương phục vụ cho lợi ích của Mỹ theo 3 cách: Nó hỗ trợ cho tăng trưởng và công ăn việc làm của Mỹ, thúc đẩy những mô hình hội nhập kinh tế, và giúp củng cố sự hiện diện dài hạn của Mỹ trong khu vực. Ngược lại, việc rút khỏi các thỏa thuận thương mại hiện có, hoặc đe dọa làm vậy, sẽ không tạo ra những cơ hội công ăn việc làm.

Các nguyên tắc tiêu chuẩn cao thúc đẩy hàng xuất khẩu Mỹ và bảo vệ đầu tư của Mỹ ở nước ngoài. Chúng cũng bảo vệ dòng tự do dữ liệu, điều mang tính sống còn với khả năng cạnh tranh ở những cấp độ hiệu quả cao nhất của các công ty Mỹ – từ công ty bảo hiểm tới nhà sản xuất máy bay. Những quy tắc rõ ràng cũng giúp cho người lao động Mỹ. Khi người lao động ở châu Á được quyền tổ chức và được trả lương hợp lý, người lao động Mỹ có thể cạnh tranh trong một sân chơi công bằng. Khi các tập đoàn nhà nước phải chịu những quy tắc chặt chẽ và các chính sách cạnh tranh được thực thi công bằng, các công ty Mỹ có thể cạnh tranh về chất lượng hàng hóa và dịch vụ của họ, tính hiệu quả sản xuất của họ và sức mạnh lực lượng lao động của họ.

TPP đã thiết lập những quy tắc tiêu chuẩn cao trong nhiều lĩnh vực này. Nếu không có sự tham gia của Mỹ trong TPP hay một chiến lược toàn diện tương tự, Mỹ có nguy cơ từ bỏ quyền lãnh đạo về mở cửa thị trường và thiết lập quy tắc cho các đối thủ cạnh tranh chiến lược của mình. Không có sự ủng hộ từ Mỹ, ngay cả các đồng minh và đối tác của Mỹ cuối cùng cũng có thể phải chấp nhận những tiêu chuẩn thấp hơn. Tiến bộ trong BRI và các thỏa thuận thương mại của Trung Quốc như RCEP vốn không bao gồm Mỹ có thể dẫn đến những quy tắc về mọi thứ từ đầu tư cơ sở hạ tầng đến kinh tế kỹ thuật số trái ngược với những lợi ích của Mỹ.

Washington có thể và nên xác nhận lại sự lãnh đạo của Mỹ trong các lĩnh vực này. Họ có thể bắt đầu bằng cách báo hiệu rằng họ không phản đối các đối tác trong khu vực như Nhật Bản, Úc và Singapore tiếp tục với các thỏa thuận như TPP, trong khi để ngỏ cánh cửa để Mỹ tham gia một thỏa thuận khu vực trong tương lai mà giải quyết các ưu tiên của Mỹ. Chính quyền cũng có thể hành động thông qua APEC và các thỏa thuận song phương như Đối thoại kinh tế toàn diện với Trung Quốc và diễn đàn kinh tế cấp cao với Nhật Bản để đẩy mạnh các nguyên tắc và quy chuẩn mà Mỹ ưa thích trong thương mại và đầu tư. Và họ có thể làm việc một cách xây dựng với các đối tác trong khu vực để xây dựng dựa trên tiến bộ hướng tới các thị trường có khả năng cạnh tranh.

Các bước thực hiện cụ thể :

  1. Trong các tuyên bố công khai, như bài phát biểu đã giới thiệu trong phần 1.a trên đây, và trong những cuộc gặp song phương với các đối tác trong khu vực, quan chức cấp cao trong chính quyền nên báo hiệu rằng Mỹ không hề phản đối hoàn tất sớm một thỏa thuận TPP trong các nước ký kết còn lại, và có thể sẵn sàng tham gia một thỏa thuận khu vực tương lai nếu nó giải quyết các ưu tiên của Mỹ.
  2. Tại hội nghị APEC ở Việt Nam, ủng hộ các nguyên tắc và quy chuẩn mà Mỹ ưa thích hơn về thương mại và đầu tư, an ninh năng lượng, tài sản trí tuệ, an ninh mạng, tập đoàn thuộc sở hữu nhà nước, cơ sở hạ tầng và hội nhập tài chính. Đặc biệt, tập trung cải thiện điều kiện cho các nhà xuất khẩu dịch vụ Mỹ, một lĩnh vực mà Mỹ có tính cạnh tranh cao.
  3. Bắt đầu một sự đánh giá liên ngành về những mục tiêu và ưu tiên của Mỹ trong các hiệp ước đầu tư song phương, và xây dựng một chiến lược giải quyết các vấn đề đầu tư thông qua những thỏa thuận tương lai tiềm tàng, như với Trung Quốc, Ấn Độ và Indonesia.
  4. Làm việc thông qua các ngân hàng phát triển đa phương và các kênh song phương, tìm cách để được chấp nhận một bộ quy tắc quản trị đầu tư cơ sở hạ tầng ở châu Á-Thái Bình Dương mà thúc đẩy một trật tự kinh tế khu vực mở, tính minh bạch, quy định chắc chắn và các cơ hội cho doanh nghiệp Mỹ. Ưu tiên hợp tác với các đối tác khu vực có chọn lọc, như Singapore, để thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng mềm, đặc biệt trong hội nhập tài chính và tăng cường hệ thống tài chính-thị trường.

3. Phát triển các chiến lược đa phương được điều chỉnh phù hợp cho những nền kinh tế chủ chốt trong khu vực 

Một chiến lược kinh tế hiệu quả của Mỹ đối với châu Á-Thái Bình Dương đòi hỏi phải có một đường hướng mang tính khu vực, nhưng nó phải được bổ sung bằng những chiến lược hiệu quả đối với từng nước. Thực tế của việc hoạch định chính sách và sự đa dạng của khu vực đòi hỏi Mỹ cũng phải can dự cùng các đối tác của mình trên cơ sở song phương. Sự can dự này không được loại trừ một chiến lược khu vực; ngược lại, nó nên bổ sung cho các mục tiêu khu vực của Mỹ.

Các ưu tiên cũng cần thiết phải thay đổi tùy theo từng nước hay nền kinh tế. Trong một số trường hợp, trọng tâm sẽ là giải quyết những vấn đề phiền nhiễu trong quan hệ song phương hoặc những bất đồng trong các thể chế quốc tế. Trong những trường hợp khác, sẽ có cơ hội để nâng cao hợp tác song phương. Những chiến lược song phương thông minh có thể đóng vai trò nhân cấp nhiều lần sức mạnh của các chính sách Mỹ, cho phép Washington tận dụng các mạng lưới và khả năng của các nước khác để thực hiện các mục tiêu chung.

Các đường hướng song phương nên được đánh giá hợp lý với nhu cầu và tình hình chính trị cũng như kinh tế đặc thù ở mỗi nước. Với một nước như Trung Quốc, một đối thủ cạnh tranh chiến lược tăng trưởng nhanh, chiến lược của Mỹ phải tập trung chắc chắn vào một mối quan hệ cùng có lợi vừa giải quyết các bất đồng cơ bản của 2 nước, như về chuyển giao công nghệ bắt buộc, vừa thúc đẩy hợp tác ở lĩnh vực có khả năng.

Đối với Nhật Bản, một đồng minh hiệp ước có chung tư tưởng và chia sẻ những lợi ích tiêu chuẩn cao của Mỹ về khu vực, đường hướng của Mỹ nên tận dụng sức mạnh tương ứng của mình để làm việc cùng nhau ở các nước thứ ba và trong các thể chế đa phương để thúc đẩy các nguyên tắc và quy chuẩn Mỹ ưa thích hơn. Đối với Hàn Quốc, nơi việc rút khỏi Thỏa thuận thương mại Hàn-Mỹ sẽ gây hại cho cả lợi ích kinh tế lẫn an ninh của Mỹ, đường hướng của Mỹ nên giải quyết các mối lo ngại chính đáng của chúng ta trong bối cảnh thỏa thuận này, bên cạnh việc hỗ trợ vị thế của Hàn Quốc với tư cách là đồng minh chính của Mỹ trong khu vực và các nỗ lực riêng của nước này nhằm thúc đẩy động lực thị trường và những thị trường có khả năng cạnh tranh hơn.

Ưu tiên cho chiến lược song phương với các nền kinh tế chủ chốt trong khu vực bao gồm, nhưng không giới hạn ở:

  • Trung Quốc: Thiết lập một kênh thường xuyên giữa cố vấn an ninh quốc gia Mỹ và giám đốc Hội đồng kinh tế quốc gia với các cố vấn thân cận nhất và cao cấp nhất cho Chủ tịch Tập Cận Bình để định hình đường nét của một mối quan hệ Mỹ-Trung cùng có lợi. Nhóm 2×2 này nên bắt đầu làm việc để phát triển một nghị trình giải quyết các lĩnh vực cạnh tranh và hợp tác, và gặp gỡ trực tiếp ít nhất 2 lần/năm.
  • Nhật Bản: Tại cuộc họp tiếp theo của đối thoại kinh tế Mỹ-Nhật do phó tổng thống và phó thủ tướng hai nước dẫn đầu, thiết lập một trụ cột tập trung vào nhận diện các lợi ích chung ở các nước thứ ba và các thể chế đa phương, và giao cho các quan chức cấp cao phát triển kế hoạch phân công lao động cho hợp tác Mỹ-Nhật để giải quyết các vấn đề đó. Cả hai bên cũng nên tái cam kết tiếp tục hợp tác về cải cách về điều tiết khu vực và toàn cầu mà hỗ trợ cho các lợi ích chung của hai bên.
  • Ấn Độ: Việc thừa nhận tầm quan trọng của tiềm năng kinh tế không sánh bằng của Ấn Độ, trong đó có dân số trẻ của nước này, sẽ mở rộng sự can dự kinh tế của Mỹ với các nhà lãnh đạo bang đầy quyền lực của Ấn Độ, kể cả bằng cách hướng vào can dự khu vực tư nhân cao cấp của Mỹ với các nhà lãnh đạo bang của Ấn Độ để thảo luận trực tiếp các ưu tiên cải cách.
  • Đông Nam Á: Tiếp tục ủng hộ những nỗ lực của ASEAN hướng tới hội nhập kinh tế và Cộng đồng kinh tế ASEAN thông qua những sáng kiến như Cơ chế một cửa ASEAN. Tổng thống Trump nên mời các nhà lãnh đạo ASEAN đến Mỹ vào năm 2018 để thảo luận các vấn đề kinh tế khu vực cũng như chiến lược, xây dựng dựa trên những lợi ích đã đạt được tại hội nghị thượng đỉnh Sunnylands năm 2016. Về song phương, làm việc với Indonesia để hạ các rào cản đối với thương mại và đầu tư của Mỹ, và thúc giục Việt Nam tiếp tục cải cách, đặc biệt về tiêu chuẩn lao động, mà nước này đã đồng ý như một phần của đàm phán TPP.
  • Hàn Quốc: Làm việc một cách xây dựng với Hàn Quốc để đàm phán cải thiện KORUS, điều sẽ giúp gia tăng tự do hóa trong các lĩnh vực then chốt như ngành tài chính, pháp lý, thương mại điện tử và dẫn đến một mối quan hệ thương mại song phương công bằng hơn.
  1. Hành động để chống các chính sách hạn chế thương mại trong khu vực 

Các chính sách hạn chế thương mại và đầu tư đã tăng lên trên toàn cầu kể từ cuộc khủng hoảng tài chính. Phần lớn các nền kinh tế ở châu Á đã thông qua những biện pháp mang tính hạn chế này, điều đã gây hại cho các nhà xuất khẩu và người lao động Mỹ. Các biện pháp địa phương hóa đã đặc biệt gây nguy hại, làm giảm tính hiệu quả của đầu tư vào công nghệ của cả các công ty địa phương lẫn nước ngoài. Những tác động kết hợp của tình trạng ăn cắp tài sản trí tuệ từ việc làm giả và sử dụng lậu hàng hóa, dùng lậu phần mềm và ăn cắp bí mật thương mại đã khiến nền kinh tế Mỹ thiệt hại khoảng 600 tỷ USD mỗi năm. Trong khi Mỹ vẫn là một nền kinh tế mở cửa cao độ, với thuế suất áp dụng tính theo khối lượng thương mại trung bình là 1,7% và là một trong những chế độ đầu tư ổn định, cởi mở nhất thế giới, các sản phẩm và công ty Mỹ vẫn thường phải chịu một loạt các chính sách phân biệt và rào cản tiếp cận thị trường ở các thị trường châu Á.

Sự mở cửa của nền kinh tế Mỹ vẫn rất mạnh mẽ, làm đầy túi tiền của người tiêu dùng Mỹ hơn, giúp các nhà sản xuất Mỹ tiếp tục cạnh tranh bằng cách tìm nguồn cung ứng các đầu vào chất lượng cao nhất với giá thấp nhất, và để Mỹ duy trì là nước dẫn đầu về đổi mới.

Đồng thời, Chính phủ Mỹ có thể và nên hành động nhiều hơn để ngăn chặn các nước khác thực hiện những chính sách thiển cận, mang tính phân biệt làm méo mó và gây hại cho nền kinh tế Mỹ. Để ngăn chặn các hành vi có hại trong tương lai, Washington phải thể hiện rằng họ sẵn sàng áp đặt những giải pháp hợp lý nhưng cứng rắn và làm việc với các đối tác thương mại về các hoạt động tự do hóa cùng có lợi.

Những nỗ lực đó bắt đầu với việc sử dụng mạnh mẽ các luật đã có để xử lý những hoạt động thương mại không công bằng, phù hợp với các nguyên tắc của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và trong sự phối hợp với các đồng minh của Mỹ. Trong dài hạn, việc bảo vệ các công ty và người lao động Mỹ đã liên kết với toàn cầu khỏi bị các chính sách trung ương tập quyền lạm dụng sẽ đòi hỏi phải củng cố một loạt công cụ chính sách. Mục tiêu ở đây phải là sử dụng các công cụ đang có một cách hiệu quả hơn, trong khi xây dựng những cơ chế mới, bền vững cho các hành động hơn nữa mà hỗ trợ cho những lợi ích rộng lớn hơn của Mỹ.

Các bước thực hiện cụ thể 

  1. Sử dụng các giải pháp thương mại của Mỹ để điều tra tích cực hơn các hoạt động thương mại và đầu tư không công bằng (và chuẩn bị những kế hoạch hành động tương ứng để giải quyết chúng) theo một cách thức nhất quán với các quy tắc của WTO và tránh gây hại thêm cho các lợi ích khác của Mỹ.
  2. Tránh dùng những tác động kinh tế vĩ mô rộng như giảm mất cân bằng thương mại như là mục tiêu để đàm phán thương mại, thừa nhận rằng những tác động đó là kết quả của nhiều nhân tố như tăng trưởng kinh tế, tiết kiệm và đầu tư, và chênh lệch giàu nghèo giữa các đối tác thương mại.
  3. Văn phòng đại diện thương mại Mỹ (USTR) nên bắt đầu phát triển một chiến lược để sử dụng hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO một cách năng nổ hơn, đặc biệt trong các trường hợp liên quan tới những lĩnh vực kinh tế do nhà nước hỗ trợ.
  4. Bắt đầu thực hiện các khuyến nghị chính của Báo cáo ủy ban IP cập nhật năm 2017, bao gồm:
  5. Như đã được công nhận trong Đạo luật các quyền lực kinh tế khẩn cấp quốc tế (IEEPA), trao quyền cho Bộ trưởng Tài chính, theo giới thiệu của Bộ trưởng Thương mại, để ngăn chặn các công ty nước ngoài nhiều lần dùng hoặc hưởng lợi từ việc ăn cắp IP Mỹ sử dụng hệ thống ngân hàng Mỹ.
  6. Yêu cầu Ủy ban chứng khoán và hối đoái (SEC) đánh giá liệu việc các công ty sử dụng IP ăn cắp có là một điều kiện vật chất phải được báo cáo công khai hay không.

iii.   Thiết lập khả năng tịch thu tạm thời các mặt hàng nhập khẩu mà bao gồm nguyên vật liệu ăn cắp hay sử dụng lậu hoặc được sản xuất với một quy trình kinh doanh bao gồm tài sản trí tuệ có được một cách bất hợp pháp, làm việc với Quốc hội để củng cố Khoản 337 của Đạo luật thuế quan 1930.

  1. Làm việc với Quốc hội để khởi động một quá trình đánh giá toàn diện, mang tính lưỡng đảng về rò rỉ công nghệ chiến lược thông qua hàng xuất khẩu và đầu tư nước ngoài, và đề xuất những điều chỉnh thích hợp cho hệ thống quản lý xuất khẩu của Mỹ, quá trình thẩm định đầu tư do Ủy ban đầu tư nước ngoài ở Mỹ (CFIUS) giám sát, và các công cụ liên quan khác.
  2.  Chỉ đạo cố vấn an ninh quốc gia và giám đốc Hội đồng kinh tế quốc gia phát triển một kế hoạch chung cho các hành động tương hỗ có điều chỉnh và chọn lọc chống lại các chính sách ở những thị trường quan trọng như Trung Quốc vốn đặt các doanh nghiệp Mỹ vào thế bất lợi về cạnh tranh.

Matthew P. Goodman là cố vấn cấp cap Chương trình Kinh tế Châu Á và là giám đốc Chương trình Kinh tế Chính trị tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), Mỹ. Chương trình Kinh tế Chính nghiên cứu về chính sách kinh tế quốc tế, trong đó tập trung vào khu vực Châu Á-Thái Bình Dương.

Scott Miller là Chủ tịch Chương trình Kinh doanh Quốc tế tại CSIS từ năm 2012. Chương trình Kinh doan Quốc tế tập trung và các vấn đề cốt lõi về kinh tế toàn cầu như thương mại quốc tế, đầu tu, cạnh tranh và cải cách.

Amy Searight là giám đốc Chương trình Đông Nam Á tại CSIS. Tiến sĩ Amy Searight có nhiều kinh nghiệm về chính sách Châu Á như quốc phòng, ngoại giao, phát triển và kinh tế.

Nguồn: Nghiên cứu Biển Đông