Nguồn: James A. Millward, “What Xi Jinping Hasn’t Learned From China’s Emperors”, The New York Times, 01/10/2019.
Biên dịch: Phan Nguyên
Nhân dịp kỷ niệm 70 năm quốc khánh nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH) vào ngày 1 tháng 10, bộ máy nhà nước-đảng có nhiều điều để ăn mừng: một thành tích chưa từng có về phát triển kinh tế, giáo dục và đổi mới công nghệ đẳng cấp thế giới, một vị trí ngày càng nổi bật trên sân khấu thế giới. Nhưng ngay cả khi chính quyền cố gắng hết sức để đảm bảo một cuộc diễu hành mừng quốc khánh hoành tráng, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) vẫn phải đối mặt với sự chỉ trích quốc tế dữ dội nhất kể từ năm 1989, khi họ sát hại hàng trăm người biểu tình không vũ trang tại Quảng trường Thiên An Môn ở trung tâm Bắc Kinh. Ba mươi năm sau, mối quan tâm của quốc tế tập trung vào các khu vực ngoại vi của Trung Quốc: Tân Cương và Hồng Kông.
Cả hai đều là những cái gai trong mắt của ĐCSTQ, cũng như Tây Tạng, nơi một cuộc tranh cãi về việc ai sẽ kế nhiệm vị Dalai Lama lớn tuổi có thể làm bất đồng chính kiến bùng nổ trở lại, và Đài Loan, nơi mà sự ủng hộ của người dân đang gia tăng dành cho một vị tổng thống đang thách thức quan điểm của Bắc Kinh rằng hòn đảo này phải là một một phần không tách rời của Trung Quốc. Bất chấp các tuyên bố của ĐCSTQ, những thách thức này không phải là do hoạt động của các “thế lực thù địch”, “những kẻ ly khai”, hay “những tên côn đồ” khuấy động rắc rối ở các vùng lãnh thổ này. Thay vào đó, chúng xuất phát từ thực tế là khi ĐCSTQ lên nắm quyền 70 năm trước, họ không tiếp quản một Trung Quốc đồng nhất mà là một đế chế rộng lớn với nhiều dân tộc.
Trong những thập niên đầu tiên, CHND Trung Hoa ngầm thừa nhận quá khứ này và tự hào tuyên bố bản sắc của mình như một nhà nước đa sắc tộc. Nhưng giờ đây, dưới thời Chủ tịch Tập Cận Bình, ĐCSTQ đang tích cực xóa bỏ sự đa dạng về văn hóa và chính trị vốn là di sản của các thời kỳ đế quốc trước đây.
Mặc dù CHND Trung Hoa luôn tuyên truyền rằng tất cả các vùng đất và dân tộc dưới quyền kiểm soát của ĐCSTQ ngày nay đều thuộc về Trung Quốc từ thời cổ đại, chính triều Thanh (1636-1912) mới là người tạo dựng nên lãnh thổ hình con gà trống mà chúng ta hay dùng miêu tả Trung Quốc ngày nay. Đài Loan, Tân Cương và Tây Tạng đều là những khu vực do nhà Thanh chinh phục, cũng như Mông Cổ. Địa vị đặc biệt của Hồng Kông ngày nay cũng là một di sản của chính sách nhà Thanh.
Người Trung Quốc bắt đầu định cư ở Đài Loan vào đầu những năm 1600, và vào năm 1683, nhà Thanh đã đặt các thần dân Trung Quốc và người Đài Loan bản địa dưới hai loại chính quyền riêng biệt. Về phía tây, nhà Thanh chinh phục Tân Cương vào năm 1759, và đây là đỉnh điểm của một cuộc đấu tranh lâu dài với người Mông Cổ ở vùng Zunghar[1] để giành quyền thống trị ở Trung Á. Triều đình điều hành Tân Cương dưới sự cai trị lỏng lẻo của quân đội, cho phép giới tinh hoa bản địa quản lý các vấn đề địa phương. Những người định cư Trung Quốc theo sau, thuộc địa hóa một phần miền bắc Tân Cương. Tây Tạng cũng vậy, bị nhà Thanh chinh phục trong các cuộc chiến với vùng Zunghar, nhờ sự kết hợp giữa can thiệp quân sự và ngoại giao tôn giáo. Các vị lạt ma Tây Tạng và các hoàng đế nhà Thanh đã đồng ý về nguyên tắc phân chia các lãnh vực quyền lực tâm linh và thế tục giữa họ với nhau.
Hồng Kông là một trường hợp khác, nhưng nó cũng gắn với thời đế quốc nhà Thanh và, có lẽ cũng đáng ngạc nhiên, với Tân Cương. Thành phố này đã được nhà Thanh nhượng cho Anh trong Hiệp ước Nam Kinh năm 1842 chấm dứt Chiến tranh nha phiến lần thứ nhất – hiệp ước đã mở cửa các cảng dọc bờ biển Trung Quốc cho thương mại với phương Tây. Thỏa thuận nổi tiếng này, được biết đến rộng rãi là một hiệp ước bất bình đẳng, rõ ràng là một trường hợp xâm lược của đế quốc Anh. Nhưng ý tưởng cho phép người nước ngoài quản lý các khu vực thương mại viễn biên như Hồng Kông và các cảng hiệp ước khác là một yếu tố tiêu chuẩn trong các chính sách của nhà Thanh. Thật vậy, người Nga đã giao dịch tại một vùng đất như vậy ở Kiakhta, tại Mông Cổ thuộc Thanh, kể từ năm 1727.
Trước Chiến tranh nha phiến lần thứ nhất, nhà Thanh phải đối mặt với một thách thức bên ngoài biên giới phía tây Tân Cương tương tự như thách thức sau đó họ phải đối mặt từ người Anh. Các thương nhân từ hãn quốc Kokand[2] liên tục tấn công Kashgar để đòi các đặc quyền thương mại. Sau nhiều năm bất ổn, nhà Thanh và Kokand đã đạt được thỏa thuận mở một khu thương mại, cho phép các quan chức Kokand áp dụng luật riêng của họ và thu thuế mậu dịch để đổi lấy quyền quản lý thị trường Kashgar và trao quyền tối huệ quốc cho thương nhân từ các vùng đất khác. Nhiều quan chức nhà Thanh từng đàm phán Hiệp ước Kokand năm 1835 sau đó đã đàm phán với người Anh, và các điều khoản chính của hiệp ước chấm dứt Chiến tranh nha phiến lần thứ nhất vào những năm 1840 được lấy từ các điều khoản trong Hiệp ước Kokand. Các khu vực thương mại có thể là một sự áp đặt của nước ngoài, nhưng chúng cũng là một công cụ của nhà Thanh.
Khi ĐCSTQ lên nắm quyền vào năm 1949, họ đã ngầm thừa nhận quá khứ đế quốc này. Giống như Liên Xô – một nhà nước xã hội chủ nghĩa khác đã lên án chủ nghĩa đế quốc phương Tây trong khi chính nó lên nắm quyền trên một đế chế cũ – CHND Trung Hoa không muốn trông giống như một kẻ thực dân xấu xa. Vì vậy, họ thừa nhận sự đa dạng sắc tộc của các dân tộc sống trong lãnh thổ mà họ kiểm soát bằng cách công nhận 55 dân tộc khác nhau bên cạnh người Hán. Và đảng cũng thành lập các chính quyền tự trị danh nghĩa ở các khu vực không phải là đa số người Hán, ở chính những nơi mà nhà Thanh đã cai trị thông qua giới tinh hoa bản địa không phải người Hán, bao gồm Tân Cương và Tây Tạng.
Các đặc khu kinh tế mà Đặng Tiểu Bình thành lập vào cuối những năm 1970 tại Thâm Quyến và các thành phố khác của Trung Quốc đã làm hồi sinh một tiền lệ của nhà Thanh. Những đặc khu này trông rất giống các khu thương mại truyền thống ở Kiakhta, Kashgar, Hồng Kông và các cảng hiệp ước. Và giống như các khu thương mại nhà Thanh, họ tạo điều kiện cho thương mại bằng cách cấp các đặc quyền pháp lý và thuế cho các doanh nghiệp nước ngoài. Tương tự như vậy, lời hứa “một nhà nước, hai chế độ” – nguyên tắc được cho là sẽ đảm bảo cho Hồng Kông quyền tự chủ cao và đóng vai trò mà Bắc Kinh hy vọng là một mô hình cho sự thống nhất với Đài Loan trong tương lai – cũng là một chính sách giống với chính sách thời nhà Thanh.
Có thể nói CHND Trung Hoa thời kỳ đầu đã thừa nhận và dựa vào truyền thống của nhà Thanh với những cách tiếp cận linh hoạt đối với sự đa dạng và vấn đề chủ quyền. Nhưng qua thời gian, đặc biệt là kể từ khi ông Tập lên nắm quyền vào năm 2012, ĐCSTQ đã từ bỏ truyền thống tương đối khoan dung này trong khi tăng cường việc đồng hóa dân tộc và sự cứng nhắc chính trị. Ngày nay, thay vì tôn vinh sự độc đáo của các từng nền văn hóa riêng lẻ, ĐCSTQ ngày càng thúc đẩy một phạm trù đơn nhất gọi là “Trung Hoa”, một loại bản sắc liên-Trung-Quốc. Mặc dù được cho là bao gồm tất cả các dân tộc, nhưng phong tục và đặc điểm của “Trung Hoa” thực tế lại giống hệt với phong tục và đặc điểm của người Hán.
Chính phủ bây giờ gọi tiếng Quan thoại, trước đây gọi là tiếng Hán, là quốc ngữ (guoyu) và mạnh mẽ ép buộc việc sử dụng nó trong các trường học và địa điểm công cộng, mặc dù tự do ngôn ngữ và việc sử dụng chính thức các ngôn ngữ địa phương vẫn được đảm bảo bởi Hiến pháp. Trung Quốc từng tích cực ủng hộ xuất bản và giáo dục song ngữ với các ngôn ngữ không phải tiếng Hán. Bây giờ, các cửa hàng sách của người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương trống rỗng và bị đóng cửa. Ở cả Tân Cương và Tây Tạng, giáo dục song ngữ đã được thay thế bởi các trường tiếng Quan thoại, và những người ủng hộ việc học tiếng Duy Ngô Nhĩ và tiếng Tây Tạng đã bị đàn áp. Các nhà chức trách đã loại bỏ các chữ viết Ả Rập khỏi những nơi công cộng trên khắp Trung Quốc – bao gồm cả từ “halal” trên biển hiệu các cửa hàng và nhà hàng. Các chương trình truyền hình bằng tiếng Hoa mà không phải Quan thoại đang biến mất khỏi các chương trình phát sóng của Trung Quốc. Tiếng Quảng Đông đang chịu áp lực, tại Hồng Kông cũng như tỉnh Quảng Châu lân cận.
Tương tự, nhân danh việc Hán hóa tôn giáo, nhà nước-đảng của ông Tập đang san bằng các nhà thờ Hồi giáo và nhà thờ Công giáo, đồng thời phá hủy các trung tâm tu viện Phật giáo rộng lớn của Tây Tạng là Larung Gar và Yachen Gar, trục xuất các tu sĩ và nữ tu và đưa một số người trong số đó vào các trại cải tạo như những trại hiện đang giam giữ khoảng một triệu người Duy Ngô Nhĩ. ĐCSTQ đã cố gắng áp đặt “giáo dục yêu nước” vào các trường học ở Hồng Kông để thực hiện việc giảng dạy phiên bản lịch sử của đảng. Khi cử tri Đài Loan bầu một nhà lãnh đạo mà Bắc Kinh không thích vào năm 2016, ông Tập đã đe dọa sử dụng vũ lực và ngăn khách du lịch đại lục đến thăm hòn đảo này.
Những chính sách này đã làm suy yếu di sản của CHND Trung Hoa về sự linh hoạt hành chính và khoan dung tương đối đối với các dân tộc, đồng thời khiến nó bị quốc tế chỉ trích, làm trầm trọng thêm căng thẳng và làm suy yếu tính chính danh của đảng. Hơn nữa, các trại tập trung sẽ không biến người Duy Ngô Nhĩ và người Kazakh thành những người Trung Quốc trung thành, chịu ăn thịt lợn và coi thường lễ Ramadan. Bạo lực của cảnh sát sẽ không khiến người Hồng Kông từ bỏ đòi hỏi quyền tự trị được hứa hẹn trong Luật cơ bản Hồng Kông. Đàn áp tôn giáo và phỉ báng Đức Dalai Lama sẽ không khiến người Tây Tạng yêu mến đảng. Các mối đe dọa quân sự sẽ không làm cho người Đài Loan cảm thấy gần gũi hơn với đại lục.
Giấc mơ vô vọng của ông Tập về sự đồng nhất chính trị và văn hóa không chỉ đi ngược lại các cách tiếp cận truyền thống của Trung Quốc đối với sự đa dạng. Chính sách đồng hóa của Tập còn thúc đẩy chính sự bất ổn mà ĐCSTQ đã hy vọng né tránh từ lâu.
James A. Millward, giáo sư lịch sử tại Đại học Georgetown, là tác giả của cuốn “Eurasian Crossroads: A History of Xinjiang” and “The Silk Road: A Very Short Introduction.”
—————
[1] Vùng đất thuộc Tân Cương Kazakhstan và Kyrgyzstan ngày nay.
[2] Vùng đất thuộc đông Uzbekistan ngày nay.