Nguồn: Clarence Thomas confirmed to the Supreme Court, History.com
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Vào ngày này năm 1991, sau phiên điều trần gay cấn, Thượng viện Mỹ đã bỏ phiếu với tỷ lệ 52:48, bổ nhiệm Clarence Thomas vào chiếc ghế trống tại Tối cao Pháp viện.
Tháng 07/1991, Thurgood Marshall, người Mỹ gốc Phi đầu tiên trở thành Thẩm phán Tối cao, tuyên bố nghỉ hưu sau 34 năm cống hiến. Tổng thống George Bush đã nhanh chóng đề cử Clarence Thomas, một thẩm phán người Mỹ gốc Phi 43 tuổi nổi tiếng bảo thủ, vào vị trí này. Thomas từng là Chủ tịch Ủy ban Cơ hội Việc làm Bình đẳng (EEOC) trong chính quyền Reagan, sang năm 1990, Bush đã bổ nhiệm ông vào Tòa Phúc thẩm Liên bang.
Khi các phiên điều trần xác nhận tư cách của Thomas cho vị trí thẩm phán Tối cao Pháp viện được tiến hành, ông đã tránh được tranh cãi về quan điểm bảo thủ của mình về các vấn đề như phá thai bằng cách từ chối nêu quan điểm chính trị rõ ràng. Ông dường như đã nắm chắc vị trí mới, cho đến khi Anita Hill, cựu trợ lý, lên tiếng buộc tội Thomas quấy rối tình dục.
Hill, người từng là trợ lý của Thomas tại Bộ Giáo dục và EEOC trong thập niên 1980, đã cáo buộc rằng Thomas đã nhiều lần đưa ra những bình luận mang tính quấy rối tình dục nhằm cố gắng quyến rũ bà. Bắt đầu từ ngày 11/10/1991, Ủy ban Tư pháp Thượng viện đã tổ chức bốn ngày điều trần được truyền hình để làm rõ các cáo buộc của Hill. Công chúng Mỹ đã bị sốc bởi sự thẳng thắn trong lời khai chân thực của Hill và phản ứng không mấy thiện cảm của một ủy ban chỉ toàn nam giới, với một số thành viên còn công khai đối nghịch với Hill. Trong khi đó, Thomas phủ nhận mọi cáo buộc, và một số nhân chứng còn thay mặt ông bày tỏ nghi ngờ về tư cách và tình trạng tâm thần của Hill. Ngày 15/10, Thượng viện đã bỏ phiếu với tỷ lệ sít sao nhằm phê chuẩn quyết định bổ nhiệm Thomas.
Mặc dù các phiên điều trần khiến Thượng viện và công chúng Mỹ bị chia rẽ sâu sắc, sự kiện này đã giúp thúc đẩy nhận thức cộng đồng về vấn đề quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Khi tiếp quản vị trí của Thurgood Marshall với quan điểm cực kỳ tự do, Thomas đã đóng góp đáng kể cho tính chất bảo thủ của tòa án tối cao liên bang trong những năm 1990 và đầu những năm 2000.