Nguồn: Natasha Kassam, “China Has Lost Taiwan, and It Knows It”, The New York Times, 01/12/2019.
Biên dịch: Ngô Việt Nguyên
“Không thể nào thành công,” đó là nội dung tweet bằng tiếng Hoa của bà Thái Anh Văn, tổng thống Đài Loan, vào ngày 5 tháng 11, sau khi chính phủ Trung Quốc công bố một loạt chính sách nhằm lôi kéo các công ty và người dân Đài Loan đến đại lục.
“26 biện pháp mới của Bắc Kinh là một phần của nỗ lực nhằm áp đặt hệ thống ‘một quốc gia, hai chế độ’ lên Đài Loan,” nội dung tweet của bà Thái viết, nhắc đến nguyên tắc mà Hồng Kông, một lãnh thổ khác mà Bắc Kinh hy vọng sẽ hoàn toàn kiểm soát trong tương lai, được cai trị lúc này, với sự tự trị được đảm bảo phần nào từ Bắc Kinh. “Tôi muốn nói rõ rằng những nỗ lực của Trung Quốc nhằm gây ảnh hưởng đến các cuộc bầu cử và ép buộc chúng ta phải chấp nhận ‘một quốc gia, hai chế độ’ sẽ không bao giờ thành công.” Những người biểu tình ở Hồng Kông trong nhiều tháng qua có thể xem là đã lên tiếng rằng nguyên tắc trên là một điều dối trá.
Ở Đài Loan, mục tiêu lâu dài của chính phủ Trung Quốc là “thống nhất một cách hòa bình”, “thống nhất” dù rằng Đài Loan chưa bao giờ nằm dưới thẩm quyền hoặc sự kiểm soát của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hay Đảng Cộng sản Trung Quốc. Để đạt được mục tiêu trên, Bắc Kinh đã nỗ lực trong nhiều năm nhằm vừa thuyết phục vừa ép buộc Đài Loan gắn kết với đại lục bằng những hứa hẹn về lợi ích kinh tế kèm những đe dọa quân sự. Đầu năm nay, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nhấn mạnh rằng “thống nhất hoàn toàn” là một “sứ mệnh lịch sử.” Ông nói thêm rằng “Chúng ta sẽ không hứa hẹn từ bỏ sử dụng vũ lực và giữ để ngõ mọi phương án cần thiết”.
Đài Loan đang chuẩn bị cho cuộc bầu cử Tổng thống vào tháng 1/2020. Vào ngày 17/11, Bà Thái tuyên bố ông William Lai Ching-te (Lại Thanh Đức), một cựu thủ tướng và là người có quan điểm ủng hộ độc lập, là ứng viên phó tổng thống trong liên danh tranh cử với bà. Cùng ngày hôm đó, Trung Quốc đã cho một tàu sân bay đi qua eo biển Đài Loan. (Vào tháng 7, Trung Quốc công bố sách trắng quốc phòng, trong đó nói rằng, “bằng việc cho tàu chiến và máy bay đi vòng qua Đài Loan, lực lượng vũ trang gửi một lời cảnh báo mạnh mẽ đến những thế lực ly khai đòi độc lập của Đài Loan.”) Joseph Wu (Ngô Chiêu Tiếp), ngoại trưởng Đài Loan, phản ứng bằng cách tweet rằng: “Trung Quốc âm mưu can thiệp vào bầu cử Đài Loan. Cử tri sẽ không để mình bị đe dọa! Họ sẽ nói không với Trung Quốc ở hòm phiếu.”
Chính phủ Trung Quốc dường như cũng nghi điều đó sẽ xảy ra. Cho dù họ vẫn duy trì những biện pháp cứng rắn (dù không hiệu quả), họ cũng đã dùng nhiều phương cách mới. Họ không đơn thuần chỉ ủng hộ các ứng cử viên từ Quốc dân đảng, đảng hiện ủng hộ liên kết bền chặt hơn với Bắc Kinh. Họ còn cố gắng phá rối quá trình dân chủ của Đài Loan và gieo mầm chia rẽ xã hội trên hòn đảo này.
Đến lúc này thì rõ ràng là ngay cả những ứng cử viên có tư tưởng thân Bắc Kinh cũng không thể đem Đài Loan đến cho Trung Quốc. Chỉ một trong mười người Đài Loan ủng hộ việc thống nhất với Trung Quốc, cho dù sớm hay muộn, theo một cuộc thăm dò bởi Trung tâm Nghiên cứu Bầu cử tại Đại học Chính trị Quốc gia Đài Loan hồi tháng 10. Nếu xét công luận như vậy thì các ứng viên tổng thống sẽ chắc chắn tự gây hại cho khả năng tranh cử của mình nếu họ bị xem là quá thân Trung Quốc.
Bằng cách “khoe cơ bắp”, Bắc Kinh dường như chỉ càng đẩy người Đài Loan ra xa. Một loạt các vụ thử tên lửa bởi Giải phóng quân Trung Quốc trước thềm cuộc bầu cử Tổng thống hồi tháng 3/1996 đã được dùng để đe dọa cử tri Đài Loan và ngăn cản họ bầu lại cho ông Lý Đăng Huy. Một trong những đối thủ của ông Lý, Chen Li-an, cảnh báo rằng “nếu bầu cho Lý Đăng Huy nghĩa là bạn lựa chọn chiến tranh.” Tuy vậy, ông Lý thắng 3 ứng cử viên khác một cách dễ dàng, với 54% số phiếu bầu.
Nhà cầm quyền Trung Quốc dường như cũng nghĩ rằng sự tương thuộc kinh tế giữa hai bờ eo biển Đài Loan sẽ là một con đường dẫn đến thống nhất. Đến một lúc nào đó, cái giá Đài Loan phải trả để tháo gỡ những liên kết kinh tế này sẽ trở nên quá đắt.
Tuy vậy, giá trị thương mại giữa Trung Quốc và Đài Loan đã đạt hơn 181 tỉ đô la Mỹ vào năm 2017, so với mức 35,5 tỉ đô la vào năm 1999, và cho dù hai nền kinh tế xích lại gần nhau hơn, nhưng tỷ lệ người tự nhận mình là người Đài Loan ngày càng tăng, từ mức hơn 48% năm 2008 lên khoảng 60% năm 2015, trong giai đoạn ông Mã Anh Cửu của Quốc dân đảng làm tổng thống.
Phong trào Hoa Hướng dương năm 2014, một loạt những cuộc biểu tình được lãnh đạo bởi một liên minh giữa sinh viên và các nhà hoạt động xã hội dân sự, đã cho thấy thế hệ trẻ Đài Loan muốn khước từ quan hệ gần gũi hơn với Trung Quốc. Việc bà Thái, người có tư tưởng ủng hộ độc lập, thắng cử vào năm 2016 cũng nói lên điều đó.
Mức độ ủng hộ dành cho bà Thái sau này có trượt dốc, đa phần bởi vì bà không thể lôi kéo sự ủng hộ dành cho các cải cách lớn về lương hưu và hôn nhân đồng tính, hay đạt được những tiến bộ trong việc giải quyết mức lương đình trệ và kiểm soát ô nhiễm. Đến lúc diễn ra các cuộc bầu cử địa phương vào cuối năm 2018, cơ hội thắng cử nhiệm kỳ thứ hai của bà gần như là con số không. Nhưng bây giờ thì bà đang dẫn đầu các cuộc thăm dò.
Với sự ủng hộ tăng trở lại này, bà có thể phải phần nào cảm ơn những cuộc biều tình kéo dài nhiều tháng ở Hồng Kông. Bắc Kinh thiết kế mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đang hiện hành ở Hồng Kông với mục tiêu áp dụng nó cho Đài Loan. Ý tưởng này, vốn lâu nay không được ủng hộ rộng rãi bởi người Đài Loan, giờ ngày càng mất uy tín.
Trung Quốc vẫn giăng lưới rất rộng, và họ sẽ vẫn tiếp tục sử dụng những đòn bẩy quân sự và kinh tế mà họ có. Chắc chắn là họ sẽ tiếp tục thao túng việc đưa tin tức để giúp các ửng cử viên có tư tưởng thân Bắc Kinh. Và giờ họ cũng đã bắt đầu một chiến dịch tung tin giả nhằm làm xói mòn lòng tin của người Đài Loan vào các thể chế chính trị của mình và gieo mầm bất mãn.
Cuối tháng trước, bà Thái tố Trung Quốc “viết tin giả và lan truyền những tin đồn thất thiệt để đánh lừa và làm người Đài Loan nghĩ sai” với hy vọng “phá hoại nền dân chủ của chúng ta”. Bà Thái cũng đã gặp nhiều khó khăn trong việc bác bỏ cáo buộc rằng bà không có bằng tiến sĩ từ Đại học Kinh tế London, cho dù trường đã xác nhận rằng bà đã “được cấp bằng Tiến sĩ luật vào năm 1984.” Các quan chức Trung Quốc được cho là đã thừa nhận ngầm rằng việc Nga can thiệp vào bầu cử Tổng thống Mỹ hồi năm 2016 đã khiến họ suy nghĩ lại những cách họ có thể can thiệp vào cuộc bầu cử ở Đài Loan.
Trung Quốc cũng không hề che đậy ý định làm gia tăng những xung đột xã hội ở Đài Loan. Một bài xã luận đăng vào tháng 4 trên tờ Thời báo Hoàn cầu, một tờ báo lá cải thuộc sở hữu của chính phủ Trung Quốc, viết: “Chúng ta không cần một cuộc chiến tranh thật để giải quyết vấn đề Đài Loan. Đại lục có thể sử dụng nhiều phương pháp để đưa Đài Loan được lãnh đạo bởi Dân tiến Đảng (DPP) rơi vào tình trạng như ở Lebanon, khiến các phần tử ‘ủng hộ Đài Loan độc lập’ không thể chống đỡ nổi.” Điều này cũng có nghĩa là chính phủ Trung Quốc tin rằng họ có thể khiến các thành phần sắc tộc, chính trị và xã hội Đài Loan xung đột lẫn nhau.
Trung Quốc cũng có khả năng sẽ tận dụng điểm yếu của nền chính trị Đài Loan, đó là các hệ thống bang hội. Những hệ thống nói trên ngày nay không còn quan trọng như trong thời chuyên chế của Đài Loan, nhưng nó vẫn cho phép các lãnh đạo cộng đồng, hiệp hội nông dân và thậm chí các nhân vật xã hội đen tổ chức mua phiếu bầu.
Các mạng truyền thông xã hội cũng là một chiến trường quan trọng, vì gần 90% tổng số dân Đài Loan có sự hiện diện trên các nền tảng này, và các kênh tin tức chính thống đã từng đăng những bài tin giả lấy từ mạng xã hội mà không kiểm chứng. Theo Reuters, các cơ quan chính phủ Trung Quốc đã trả tiền cho các phương tiện truyền thông Đài Loan để đăng những tin tức ủng hộ Bắc Kinh.
Theo một số nguồn tin, một chiến dịch loan tin giả được phát động bởi một tổ chức mạng chuyên nghiệp từ Trung Quốc, có nguồn gốc liên quan đến Ban Tuyên giáo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đã giúp ông Hàn Quốc Du có tư tưởng thân Trung Quốc thắng cử thị trưởng Cao Hùng. Một tin (giả) viết rằng trong một cuộc tranh luận, đối thủ của ông Hàn đã đeo một tai nghe để người khác mớm cho ông những điều cần nói. Trung Quốc đang tìm cách làm suy yếu nền chính trị Đài Loan từ bên trong.
Nhưng Đài Loan đang kháng cự lại. Các nhà lập pháp gần đây đã gia tăng nỗ lực nhằm thông qua một đạo luật chống nước ngoài xâm nhập và can thiệp chính trị trước thềm bầu cử. Một cố vấn cho một ứng viên tổng thống nói với tôi vào mùa hè này ở Đài Bắc rằng “Câu hỏi dành cho cử tri trong cuộc bầu cử này là, quý vị muốn chết nhanh hay chết chậm?” Nhưng có thật là như vậy không? Bởi vì mặc cho những nỗ lực quấy phá của Bắc Kinh, nền dân chủ Đài Loan đã chứng minh rằng nó vẫn tràn đầy sức sống.
Natasha Kassam, nghiên cứu viên chính tại Viện Lowy, từng là một nhà ngoại giao Australia có nhiệm kỳ công tác tại Trung Quốc và Quần đảo Solomon.