Nguồn: “Henry Kissinger explains how to avoid world war three,” The Economist, 17/05/2023
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Mỹ và Trung Quốc phải học cách chung sống. Họ chỉ còn chưa đầy 10 năm nữa.
Tại Bắc Kinh, người ta đã đi đến kết luận rằng Mỹ sẽ làm bất cứ điều gì để kìm hãm Trung Quốc. Còn tại Washington, người ta quả quyết rằng Trung Quốc đang âm mưu thay thế Mỹ trở thành cường quốc hàng đầu thế giới. Nếu muốn nghe một phân tích tỉnh táo hơn về cuộc cạnh tranh này – và một kế hoạch để ngăn không cho cạnh tranh leo thang thành cuộc chiến giữa các siêu cường – hãy ghé thăm tầng 33 của một tòa nhà theo phong cách Art Deco ở trung tâm Manhattan, văn phòng của Henry Kissinger.
Ngày 27/05 vừa qua, Kissinger đã bước sang tuổi 100. Chẳng ai có nhiều kinh nghiệm về các vấn đề quốc tế hơn ông, đầu tiên với tư cách là một học giả về ngoại giao thế kỷ 19, sau đó là cố vấn an ninh quốc gia và ngoại trưởng Mỹ, và trong 46 năm qua với tư cách là nhà tư vấn và đặc phái viên đến gặp các quốc vương, tổng thống, và thủ tướng. Kissinger hiện đang lo lắng. Ông nói, “Cả hai bên đều đã tự thuyết phục rằng bên kia là một mối nguy hiểm chiến lược. Chúng ta đang thẳng tiến tới cuộc đối đầu giữa các cường quốc.”
Cuối tháng 4, The Economist đã có dịp trò chuyện với Kissinger suốt hơn 8 tiếng đồng hồ về cách ngăn chặn cuộc cạnh tranh giữa Trung Quốc và Mỹ trở thành chiến tranh. Những ngày này, lưng ông đã khom hơn, việc đi lại cũng khó khăn, nhưng tâm trí của Kissinger vẫn rất nhạy bén. Ông đang viết hai cuốn sách tiếp theo của mình, về trí tuệ nhân tạo (AI) và bản chất của các liên minh, và vẫn chủ trương hướng tới tương lai, hơn là nhìn về quá khứ.
Kissinger quan ngại cuộc cạnh tranh Mỹ-Trung để giành ưu thế về công nghệ và kinh tế ngày càng trở nên gay gắt. Trong khi người Nga dần rơi vào quỹ đạo của Trung Quốc và chiến tranh đang phủ bóng sườn phía đông châu Âu, ông lo rằng AI sẽ làm cạnh tranh Mỹ-Trung thêm trầm trọng. Trên khắp thế giới, cân bằng quyền lực và nền tảng công nghệ của chiến tranh đang thay đổi quá nhanh và theo quá nhiều cách, khiến các quốc gia không thể tìm ra một nguyên tắc ổn định nào để có thể thiết lập trật tự. Nếu không thể tìm ra được một nguyên tắc, họ có thể dùng đến vũ lực. Ông nói, “Chúng ta đang ở trong một tình huống kinh điển trước Thế chiến 1, khi mà không bên nào có đủ khả năng để nhượng bộ chính trị, và bất kỳ sự xáo trộn sự cân bằng nào cũng có thể dẫn đến những hậu quả thảm khốc”.
Hãy nghiên cứu thêm về chiến tranh
Kissinger bị nhiều người chỉ trích là hiếu chiến vì vai trò của ông trong chiến tranh Việt Nam, nhưng ông coi việc tránh để xảy ra xung đột giữa các cường quốc là trọng tâm trong các nghiên cứu của mình. Sau khi chứng kiến sự tàn bạo của Đức Quốc Xã, và chịu đựng nỗi đau mất 13 người thân trong Thảm sát Holocaust, ông tin rằng cách duy nhất để ngăn chặn xung đột tàn khốc là ngoại giao cứng rắn, lý tưởng nhất là được củng cố bằng các giá trị chung. “Đây là vấn đề phải được giải quyết,” ông nói. “Và tôi tin rằng mình đã dành cả đời để cố gắng giải quyết nó.” Theo quan điểm của ông, số phận của nhân loại phụ thuộc vào việc Mỹ và Trung Quốc có thể hòa thuận với nhau hay không. Ông cũng tin rằng sự tiến bộ nhanh chóng của AI sẽ khiến hai bên chỉ còn 5 đến 10 năm để tìm ra cách cùng chung sống.
Kissinger có vài lời khuyên cho các nhà lãnh đạo đầy tham vọng: “Hãy thành thật biết mình đang ở đâu.” Trên tinh thần đó, điểm xuất phát để tránh nổ ra chiến tranh là phân tích sự bồn chồn ngày một lớn dần ở Trung Quốc. Dù nổi tiếng với chủ trương hòa giải với chính phủ Bắc Kinh, ông thừa nhận rằng nhiều nhà tư tưởng Trung Quốc tin rằng nước Mỹ đang trên đà đi xuống và “do đó, theo quá trình tiến hóa lịch sử, cuối cùng họ sẽ thay thế chúng ta.”
Ông tin rằng giới lãnh đạo Trung Quốc đã phẫn nộ khi các nhà hoạch định chính sách phương Tây nói về một trật tự toàn cầu dựa trên luật lệ, trong khi điều họ thực sự muốn nhắc đến là luật lệ của Mỹ và trật tự của Mỹ. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc cảm thấy bị xúc phạm bởi những gì họ coi là một thỏa thuận trịch thượng do phương Tây đưa ra, để trao cho Trung Quốc các đặc quyền nếu nước này chịu hành xử theo ý họ (Bắc Kinh chắc chắn cho rằng các đặc quyền đó lẽ ra phải là của họ, với tư cách là một cường quốc đang lên). Thật vậy, một số người ở Trung Quốc nghĩ rằng Mỹ sẽ không bao giờ đối xử bình đẳng với họ và thật ngu ngốc khi tưởng tượng rằng điều đó có thể trở thành hiện thực.
Tuy nhiên, Kissinger cũng cảnh báo không nên hiểu sai tham vọng của Trung Quốc. Tại Washington, “Người ta nói rằng Trung Quốc muốn thống trị thế giới… Câu trả lời là họ [Trung Quốc] muốn trở nên hùng mạnh,” ông nói. “Họ không hướng tới sự thống trị thế giới theo kiểu Hitler. Đó không phải là cách họ nghĩ hoặc từng nghĩ về trật tự thế giới.”
Vào thời Đức Quốc Xã, chiến tranh là không thể tránh khỏi vì Adolf Hitler cần nó, Kissinger nói, nhưng Trung Quốc thì khác. Ông đã gặp nhiều nhà lãnh đạo Trung Quốc, trước tiên là Mao Trạch Đông. Ông không nghi ngờ gì về cam kết ý thức hệ của họ, nhưng cam kết đó luôn gắn liền với nhận thức sâu sắc về lợi ích và khả năng của đất nước họ.
Kissinger nhìn nhận hệ thống của Trung Quốc theo Nho giáo hơn là Marxist. Một hệ thống dạy cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc cách đạt được sức mạnh tối đa mà đất nước họ có thể đạt được, và cách giúp họ được tôn trọng vì những thành tựu của mình. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc muốn được công nhận là người ra quyết định cuối cùng trong hệ thống quốc tế về lợi ích của mình. “Nếu họ thực sự đạt được ưu thế, liệu họ có dùng nó để áp đặt văn hóa Trung Quốc hay không?”, ông đặt câu hỏi. “Tôi không biết. Bản năng của tôi bảo rằng không…[Nhưng] tôi tin rằng chúng ta đủ khả năng ngăn chặn tình huống đó xảy ra, bằng sự kết hợp giữa ngoại giao và vũ lực.”
Một phản ứng tự nhiên của Mỹ trước tham vọng của Trung Quốc là thăm dò, như một cách để xác định cách duy trì trạng thái cân bằng giữa hai cường quốc. Một phản ứng khác là thiết lập một cuộc đối thoại lâu dài giữa Trung Quốc và Mỹ. Trung Quốc “đang cố gắng đóng một vai trò toàn cầu. Tại mỗi thời điểm, chúng ta phải đánh giá xem các khái niệm về vai trò chiến lược của hai bên có tương thích với nhau hay không.” Nếu không, thì câu hỏi về vũ lực sẽ nảy sinh. “Liệu Trung Quốc và Mỹ có thể cùng tồn tại mà không có mối đe dọa chiến tranh toàn diện không? Tôi đã nghĩ và vẫn nghĩ rằng điều đó là có thể.” Nhưng ông thừa nhận thành công không phải là điều chắc chắn. “Vẫn có thể thất bại,” ông nói. “Và do đó, chúng ta phải đủ mạnh về mặt quân sự để chống chọi với thất bại.”
Bài kiểm tra cấp bách hiện nay là Trung Quốc và Mỹ sẽ hành xử ra sao trong vấn đề Đài Loan. Kissinger hồi tưởng, trong chuyến thăm đầu tiên của Richard Nixon tới Trung Quốc vào năm 1972, chỉ có Mao mới có thẩm quyền đàm phán về hòn đảo này. “Bất cứ khi nào Nixon nói về một chủ đề nào đó, Mao đều đáp ‘Tôi là một triết gia. Tôi không giải quyết những chuyện này. Hãy để Chu Ân Lai và Kissinger thảo luận về chúng.’ …Nhưng khi nhắc đến Đài Loan, ông ấy rất rõ ràng. Ông tuyên bố, ‘Họ là lũ phản cách mạng. Giờ thì chúng tôi chưa cần hòn đảo. Chúng tôi có thể đợi 100 năm. Một ngày nào đó chúng tôi sẽ giành lại hòn đảo. Nhưng đó là một ngày rất xa.’”
Kissinger tin rằng sự thấu hiểu giữa Nixon và Mao đã bị Donald Trump phá huỷ chỉ sau 50 năm, chứ không đến 100 năm. Cựu tổng thống Mỹ muốn thổi phồng hình ảnh cứng rắn của mình bằng cách ép Trung Quốc nhượng bộ về thương mại. Về chính sách, chính quyền Biden cũng đã tiếp bước Trump, nhưng là với luận điệu tự do.
Kissinger sẽ không chọn hành động như vậy đối với Đài Loan, bởi vì một cuộc chiến kiểu Ukraine sẽ phá hủy hòn đảo và tàn phá nền kinh tế thế giới. Chiến tranh cũng có thể gây khó khăn cho nội bộ Trung Quốc, và nỗi sợ hãi lớn nhất của các nhà lãnh đạo nước này vẫn là biến động trong nước.
Nỗi sợ chiến tranh tạo ra cơ sở cho hy vọng. Vấn đề là không bên nào có khả năng để nhượng bộ. Mọi nhà lãnh đạo Trung Quốc đều khẳng định mối liên hệ của đất nước họ với Đài Loan. Tuy nhiên, đồng thời, “theo tiến trình phát triển cho đến nay, Mỹ không thể đơn giản từ bỏ Đài Loan mà không làm suy yếu vị thế của mình ở những nơi khác.”
Con đường mà Kissinger chọn để thoát khỏi bế tắc này là dựa trên kinh nghiệm ngoại giao của ông. Ông sẽ bắt đầu bằng cách hạ nhiệt tình hình, sau đó dần xây dựng lòng tin và quan hệ. Thay vì liệt kê tất cả những bất bình của hai bên, tổng thống Mỹ nên nói với người đồng cấp Trung Quốc, “Thưa Chủ tịch, hai mối nguy hiểm lớn nhất đối với hòa bình thế giới hiện nay chính là hai đất nước của chúng ta. Theo nghĩa là chúng ta có khả năng hủy diệt loài người.” Trung Quốc và Mỹ, dù không chính thức công bố điều gì, sẽ cùng đặt mục đích tự kiềm chế.
Chưa bao giờ là người hâm mộ các nhóm hoạch định chính sách lớn, Kissinger muốn chỉ có một nhóm nhỏ các cố vấn, dễ tiếp cận, thảo luận với nhau, ngấm ngầm làm việc cùng nhau. Về cơ bản, không bên nào thay đổi lập trường của mình đối với Đài Loan, nhưng Mỹ sẽ điều chỉnh cách họ triển khai lực lượng của mình và cố gắng không làm dấy lên nghi ngờ rằng họ ủng hộ nền độc lập của hòn đảo.
Lời khuyên thứ hai của Kissinger dành cho các nhà lãnh đạo là “Xác định các mục tiêu có thể giúp tập hợp người dân. Tìm ra những phương tiện, những phương tiện có thể mô tả thành lời, để đạt được các mục tiêu này.” Đài Loan chỉ là điều đầu tiên trong những lĩnh vực mà các siêu cường có thể tìm thấy tiếng nói chung, theo đó thúc đẩy sự ổn định toàn cầu.
Trong một bài phát biểu gần đây, Janet Yellen, Bộ trưởng Tài chính Mỹ, gợi ý rằng những lĩnh vực này nên bao gồm biến đổi khí hậu và kinh tế. Kissinger hoài nghi về cả hai. Dù ông ủng hộ các hành động về khí hậu, nhưng ông không chắc liệu chúng có làm được gì nhiều để tạo ra niềm tin hoặc giúp thiết lập cân bằng giữa hai siêu cường. Về kinh tế, mối nguy là chương trình nghị sự thương mại có thể bị tấn công bởi phe diều hâu, những người không sẵn lòng cho Trung Quốc bất kỳ cơ hội nào để phát triển.
Thái độ “không khoan nhượng” này sẽ trở thành mối đe dọa cho hành trình tìm kiếm sự hòa hoãn. Nếu Mỹ muốn tìm cách chung sống với Trung Quốc, thì họ không nên đặt mục tiêu thay đổi chế độ. Kissinger rút ra kết luận từ một chủ đề vẫn luôn hiện diện trong suy nghĩ của ông ngay từ đầu. Ông nói, “Bất kỳ chính sách ngoại giao ổn định nào cũng phải có một vài yếu tố của thế giới thế kỷ 19. Và thế giới thế kỷ 19 dựa trên mệnh đề rằng sự tồn tại của các quốc gia cạnh tranh với nhau không phải là vấn đề.”
Nhiều người Mỹ tin rằng một Trung Quốc bại trận sẽ trở nên dân chủ và hòa bình. Nhưng dù muốn Trung Quốc trở thành một nền dân chủ đến mức nào, Kissinger cũng không thể tìm ra tiền lệ cho kết quả đó. Kịch bản khả dĩ hơn là sự sụp đổ của chế độ cộng sản sẽ dẫn đến một cuộc nội chiến, kéo theo là xung đột ý thức hệ, và chỉ làm tăng thêm bất ổn toàn cầu. “Đẩy Trung Quốc đến chỗ tan rã không phải là lợi ích của chúng ta,” ông nói.
Thay vào đó, Mỹ sẽ phải thừa nhận Trung Quốc cũng có lợi ích riêng. Một ví dụ điển hình là Ukraine.
Chủ tịch Trung Quốc, Tập Cận Bình, gần đây đã liên lạc với Volodymyr Zelensky, người đồng cấp Ukraine, lần đầu tiên kể từ khi Nga xâm lược Ukraine vào tháng 2 năm ngoái. Nhiều nhà quan sát đã xem lời kêu gọi của Tập là một hành động bề ngoài, với mục đích xoa dịu châu Âu, những người phàn nàn rằng Trung Quốc đã quá gần gũi với Nga. Ngược lại, Kissinger coi đó là một tuyên bố về ý định nghiêm túc, thứ sẽ làm phức tạp thêm tình hình ngoại giao xoay quanh cuộc chiến, nhưng cũng chính là thứ sẽ tạo ra cơ hội để các siêu cường xây dựng lòng tin lẫn nhau.
Kissinger bắt đầu bài phân tích của mình bằng việc lên án tổng thống Nga, Vladimir Putin. “Sau cùng thì, chắc chắn là Putin đã phán đoán sai lầm thảm khốc,” ông nói. Nhưng phương Tây không phải là không có lỗi. “Tôi nghĩ rằng quyết định… để ngỏ tư cách thành viên NATO của Ukraine là rất sai lầm.” Điều đó đã gây bất ổn, bởi việc mập mờ về sự bảo vệ của NATO mà không có kế hoạch hiện thực hóa nó đã khiến Ukraine được phòng thủ một cách yếu kém, dù sự bảo vệ của NATO chắc chắn sẽ khiến không chỉ Putin mà còn nhiều đồng bào của ông tức giận.
Nhiệm vụ bây giờ là phải kết thúc chiến tranh mà không tạo tiền đề cho vòng xung đột tiếp theo. Kissinger nói rằng ông muốn Nga từ bỏ phần lãnh thổ mà họ đã sáp nhập vào năm 2014 càng nhiều càng tốt, nhưng nhiều khả năng, trong bất kỳ lệnh ngừng bắn nào, Nga chí ít cũng sẽ giữ lại Sevastopol (thành phố lớn nhất ở Crimea và là căn cứ hải quân chính của Nga ở Biển Đen). Một thỏa thuận như vậy, trong đó Nga mất một số lợi ích nhưng giữ lại được những lợi ích khác, có thể khiến cả Nga lẫn Ukraine đều bất mãn.
Theo quan điểm của Kissinger, đó là một công thức cho sự đối đầu trong tương lai. Ông nói, “Tôi nghĩ những gì người châu Âu đang nói là cực kỳ nguy hiểm. Bởi vì người châu Âu đang nói: ‘Chúng tôi không muốn họ [Ukraine] gia nhập NATO, vì điều đó quá mạo hiểm. Do đó, chúng tôi sẽ vũ trang cho họ hết mức có thể và cung cấp cho họ những vũ khí tiên tiến nhất.’” Kết luận của ông rất rõ ràng: “Chúng ta hiện đã trang bị vũ khí cho Ukraine đến mức nước này sẽ là quốc gia được trang bị vũ khí tốt nhất, với đội ngũ lãnh đạo ít kinh nghiệm chiến lược nhất ở châu Âu.”
Để thiết lập một nền hòa bình lâu dài ở châu Âu đòi hỏi phương Tây phải có hai bước nhảy vọt về tư duy. Đầu tiên là cho phép Ukraine gia nhập NATO, như một phương tiện để kiềm chế, cũng như bảo vệ nước này. Thứ hai là châu Âu cần xây dựng một quan hệ hợp tác với Nga, như một cách để tạo ra một biên giới phía đông ổn định.
Nhiều quốc gia phương Tây sẽ chùn bước trước mục tiêu này hay mục tiêu khác. Và xét đến sự can dự của Trung Quốc, với tư cách là đồng minh của Nga và đối thủ của NATO, nhiệm vụ sẽ càng trở nên khó khăn hơn. Trung Quốc có một lợi ích quan trọng, là được chứng kiến Nga rời khỏi cuộc chiến ở Ukraine một cách nguyên vẹn. Tập Cận Bình không chỉ cần tôn vinh quan hệ đối tác “không giới hạn” giữa ông và Putin, nhưng một sự sụp đổ ở Moscow sẽ gây rắc rối cho Trung Quốc khi tạo ra khoảng trống quyền lực ở Trung Á, vốn có nguy cơ bị lấp đầy bởi một “cuộc nội chiến kiểu Syria”.
(Còn tiếp một phần)