Nga tăng cường chiến tranh hỗn hợp chống lại phương Tây

Nguồn: Andrei Soldatov và Irina Borogan, “Arsonist, Killer, Saboteur, Spy,” Foreign Affairs, 20/03/2025

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Trong lúc Trump ve vãn Putin, Nga đã bắt đầu leo thang chiến tranh hỗn hợp chống lại phương Tây.

Cuối tháng 1, chỉ một tuần sau nhiệm kỳ Tổng thống Mỹ thứ hai của Donald Trump, một quan chức cấp cao của NATO đã nói với các thành viên của Nghị viện Châu Âu rằng việc Nga tăng cường sử dụng chiến tranh hỗn hợp là một mối đe dọa lớn đối với phương Tây. Trong phiên điều trần, James Appathurai, Phó Trợ lý Tổng Thư ký NATO về đổi mới, hỗn hợp, và mạng, đã mô tả “các vụ phá hoại diễn ra trên khắp các quốc gia NATO trong vài năm trở lại đây,” bao gồm nhiều vụ tàu hỏa trật bánh, đốt phá, tấn công vào cơ sở hạ tầng, và thậm chí là các âm mưu ám sát nhắm vào các giám đốc công nghiệp hàng đầu. Kể từ khi Tổng thống Nga Vladimir Putin phát động cuộc chiến toàn diện ở Ukraine vào năm 2022, các chiến dịch phá hoại có liên quan đến tình báo Nga đã được ghi nhận tại 15 quốc gia. Phát biểu với báo chí sau phiên điều trần vào tháng 1, Appathurai tuyên bố đã đến lúc NATO phải chuyển sang “tư thế chiến tranh” để đối phó với các cuộc tấn công leo thang này.

Trong những tuần kể từ đó đến nay, những đề nghị kịch tính của Trump dành cho Putin đã đẩy chiến dịch phá hoại lùi về hậu trường. Thay vào đó, với mục tiêu nhanh chóng đạt được thỏa thuận với Nga để chấm dứt chiến tranh Ukraine, chính quyền Trump đã nói về một kỷ nguyên mới trong quan hệ giữa Washington và Moscow. Đồng thời, Nhà Trắng cũng thực hiện các bước để hủy bỏ những nỗ lực của FBI và Bộ An ninh Nội địa nhằm chống lại chiến tranh mạng, thông tin sai lệch, và can thiệp bầu cử chống lại Mỹ – tất cả những hoạt động này đều từng được chứng minh là có liên quan đến Moscow. Thật vậy, Trump đã gợi ý rằng Nga có thể được tin tưởng để duy trì bất kỳ thỏa thuận hòa bình nào và Putin “sẽ hào phóng hơn mức cần thiết.”

Tuy nhiên, bất kỳ giả định nào cho rằng thỏa thuận Trump-Putin sẽ buộc các điệp viên và kẻ phá hoại của Điện Kremlin phải lùi bước đều là sai lầm nguy hiểm. Quan trọng là, các ông chủ chính trị của họ sẽ không cho phép điều đó. Có rất ít người trong cơ quan an ninh Moscow tin rằng có thể đạt được hòa bình lâu dài với Mỹ hoặc phương Tây nói chung. Hồi tháng 2, Fyodor Lukyanov, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu tại Câu lạc bộ Valdai, một viện nghiên cứu thân Điện Kremlin, nói rằng sẽ không có cơ hội nào cho một “Yalta thứ hai” – một thỏa thuận toàn cầu nhằm xác định lại biên giới và phạm vi ảnh hưởng ở châu Âu. Và Dmitry Suslov, một tiếng nói nổi bật khác trong giới chính sách đối ngoại Điện Kremlin, đã khẳng định rằng bất kỳ sự tan băng nào trong quan hệ Mỹ-Nga cũng sẽ không kéo dài, và khó có thể tồn tại qua cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ ở Mỹ vào năm 2026.

Cùng lúc đó, bên trong các cơ quan an ninh Nga, sự ngờ vực về ý định của Mỹ vẫn rất sâu sắc. Suốt nhiều thế kỷ, người Nga luôn tin rằng phương Tây có ý định khuất phục hoặc phá hủy hoàn toàn đất nước của họ, và trong hàng chục năm qua, các cơ quan tình báo Liên Xô và Nga đã hoạt động dưới giả định rằng phương Tây là kẻ thù không đội trời chung. Đối với các điệp viên của Moscow, việc Trump ve vãn Putin chỉ tạo cơ hội để họ mở rộng và củng cố các chiến dịch phá hoại ở châu Âu. Xét đến sự hoài nghi của chính quyền Trump đối với NATO và việc bảo vệ các đồng minh xuyên Đại Tây Dương, một thỏa thuận giữa Mỹ và Nga có thể thúc đẩy Moscow ngày càng sẵn sàng phát động các cuộc tấn công phi truyền thống nhắm vào châu Âu.

Sau ba năm chiến tranh toàn diện ở Ukraine, các cơ quan tình báo Nga hiện đã huy động lực lượng trên khắp châu Âu và đã kết hợp chiến tranh phá hoại và chiến tranh hỗn hợp thành một chiến lược toàn diện. Những cuộc tấn công này không chỉ được thiết kế để khiến các chính phủ châu Âu bất ổn, mà còn nhằm mục đích làm giảm sự ủng hộ của người châu Âu đối với Ukraine bằng cách tăng chi phí cho các chính phủ và ngành công nghiệp theo những cách không dễ để chống lại, quấy rối người dân, và tìm kiếm lỗ hổng trong nền quốc phòng châu Âu. Trừ phi phương Tây chịu công bố một chiến lược thống nhất để chống lại những cuộc tấn công đó, đi kèm với một tín hiệu đủ mạnh để đóng vai trò như một biện pháp răn đe hiệu quả, nếu không Moscow sẽ chẳng thấy có khó khăn gì khi tăng tốc chiến dịch phá hoại trong bất kỳ tương lai nào sau thỏa thuận.

NHỮNG TÊN SÁT NHÂN MỚI CỦA MOSCOW

Kể từ khi Nga sáp nhập Crimea vào năm 2014, các cơ quan tình báo của Moscow đã thử nghiệm nhiều chiến dịch phá hoại ở nước ngoài như một cách để gây sức ép với phương Tây. Ban đầu, các chiến dịch này bao gồm các cuộc tấn công thỉnh thoảng xảy ra, chẳng hạn như khi các điệp viên của Cơ quan Tình báo Quân sự GRU của Nga cho nổ tung các kho đạn dược ở Cộng hòa Séc vốn là nguồn cung cho lực lượng Ukraine khi đó đang chiến đấu với Nga ở Donbas. Sau khi cuộc xâm lược Ukraine năm 2022 rơi vào trì trệ, Moscow đã bị cắt đứt khỏi mạng lưới phương Tây, khi các nhà ngoại giao của họ bị trục xuất và các điệp viên của họ buộc phải thuyên chuyển đi nơi khác. Tuy nhiên, vào năm 2023, các cơ quan tình báo Nga, bao gồm Cơ quan An ninh Liên bang, hay FSB, Cơ quan Tình báo Nước ngoài, hay SVR, và GRU, đã bắt đầu được triển khai lại ở châu Âu trong những gì đã trở thành một loại chiến tranh hỗn hợp kiểu mới.

Cho đến nay, chiến dịch trắng trợn nhất là vụ ám sát bất thành của Nga vào mùa xuân năm 2024 nhắm vào Armin Papperger, người đứng đầu Rheinmetall, nhà sản xuất vũ khí lớn nhất của Đức. Âm mưu này đã bị các cơ quan tình báo Đức và Mỹ ngăn chặn, như Appathurai, viên chức phụ trách chiến tranh hỗn hợp của NATO, đã công khai xác nhận vào tháng 1. Trong lời chứng của mình, Appathurai lưu ý rằng vẫn còn “những âm mưu khác” chống lại các nhà lãnh đạo công nghiệp châu Âu. Mối đe dọa này dường như không thể biến mất: điều đáng chú ý là, cùng với nhiều công ty quốc phòng châu Âu khác, Rheinmetall có khả năng đóng vai trò lớn hơn trong việc cung cấp vũ khí cho Ukraine trong tương lai sau thỏa thuận, và dự báo tăng trưởng của công ty đã tăng vọt kể từ khi chính quyền Trump lên nắm quyền.

Một trung tâm mua sắm tại Warsaw sau vụ tấn công đốt phá có liên quan đến Nga, tháng 5/2024 © Dariusz Borowicz / Agencja Wyborcza / Reuters

Trong lời chứng hồi tháng 1, Appathurai cũng xác nhận rằng Nga đã tuyển dụng “các băng nhóm tội phạm, hoặc thanh thiếu niên và người di cư thiếu hiểu biết” để tiến hành nhiều hoạt động kiểu này. Ví dụ, vào tháng 03/2024, hai người Anh đã bị bắt vì đốt một nhà kho chứa hàng có liên quan đến Ukraine ở phía đông London – một vụ tấn công bị truy ngược về công ty bán quân sự Wagner, công ty theo truyền thống là bình phong cho cơ quan tình báo quân sự Nga. Lý do cho việc này là tội phạm địa phương có thể được tuyển dụng thông qua mạng xã hội để thực hiện các phi vụ riêng lẻ mà thậm chí còn không biết họ đang làm việc cho ai, khiến việc đối phó và ngăn chặn trở nên khó khăn hơn. Một lý do khác là việc cài cắm người Nga vào các quốc gia mục tiêu cũng là một thách thức lớn.

Ngoài việc nhắm vào cơ sở hạ tầng và hậu cần quân sự của châu Âu, các cơ quan tình báo của Moscow cũng có thể tìm cách sử dụng các chiến dịch phá hoại để tác động đến bối cảnh chính trị ở các quốc gia mục tiêu. Chẳng hạn, trước thềm cuộc bầu cử liên bang của Đức vào tháng 2, đã có một loạt các cuộc tấn công nhắm vào dân thường ở Đức do người Afghanistan và những nhóm dân nhập cư khác thực hiện. Theo một quan chức tình báo cấp cao của Đức mà chúng tôi đã trò chuyện ngay trước cuộc bầu cử, người Đức tin rằng các điệp viên an ninh Nga có thể đã kích động các cuộc tấn công này để kêu gọi ủng hộ phe cực hữu, vốn là những người phản đối việc Đức hỗ trợ Ukraine.

Và những cuộc tấn công này không nhất thiết phải mang tính bạo lực mới có hiệu quả. Ví dụ, có dấu hiệu cho thấy các cơ quan Nga có thể sử dụng mạng xã hội để tuyển dụng thanh thiếu niên, bao gồm cả những người thuộc cộng đồng hải ngoại hậu Xô-viết, để sơn những khẩu hiệu mang tính thù hận lên tường của các tòa nhà chung cư ở những khu phố có đông người di cư, đe dọa hoặc làm nhục người dân địa phương để kích động lòng căm thù đối với người tị nạn từ Ukraine hoặc Syria. Những cuộc tấn công này không đòi hỏi phải chuẩn bị gì nhiều và có thể chỉ tốn vài nghìn đô la. Những kẻ được tuyển dụng tham vọng hơn có thể được trả tiền để thực hiện các hành động bạo lực hơn, chẳng hạn như đốt phá hoặc ném bom xăng.

Các viên chức tình báo châu Âu tin rằng Đức, cùng với Ba Lan và Anh, sẽ vẫn là một trong những mục tiêu chính của Moscow. Với khối dân nhập cư lớn từ các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ, bao gồm từ Nga và Ukraine, và căng thẳng đang gia tăng xoay quanh vấn đề nhập cư, các cơ quan tình báo Nga có thể nhận ra tiềm năng đặc biệt trong việc gây ảnh hưởng đến tình hình chính trị và dư luận ở Đức. Hơn nữa, xét đến cam kết của Thủ tướng sắp nhậm chức Friedrich Merz về việc gia tăng đáng kể chi tiêu quốc phòng của đất nước và vai trò của nước này trong an ninh phương Tây, Điện Kremlin lại càng có động lực lớn hơn để cố gắng gây bất ổn cho Đức.

BẮT GIỮ CON TIN

Một yếu tố khác trong chiến lược mới nổi của Nga là việc sử dụng con tin để trao đổi. Ở Nga, chưa bao giờ người nước ngoài có hộ chiếu châu Âu và Mỹ bị bắt giữ nhiều như hiện nay. Kể từ khi cuộc xâm lược nổ ra, Cục An ninh Liên bang Nga đã bắt đầu bắt giữ nhiều công dân của các quốc gia mục tiêu với nhiều lý do khác nhau – từ việc phát hiện một miếng kẹo cao su có chứa cần sa trong ví họ, đến việc tìm thấy khoản quyên góp vài trăm đô la cho một tổ chức từ thiện của Ukraine trên điện thoại của người bị giam giữ.

Trong thời Chiến tranh Lạnh, hoạt động trao đổi tù nhân chủ yếu chỉ giới hạn trong các cuộc trao đổi thầm lặng bên lề địa chính trị, giữa các cơ quan tình báo đối thủ của phương Tây và Liên Xô. Ví dụ, KGB đã không đưa hoạt động trao đổi gián điệp vào các cuộc Đàm phán Hạn chế Vũ khí Chiến lược (SALT) giữa Tổng thống Mỹ Richard Nixon và nhà lãnh đạo Liên Xô Leonid Brezhnev. Nhưng kể từ khi chiến tranh ở Ukraine bắt đầu, điều đó đã thay đổi. Sau các cuộc đàm phán về việc thả ngôi sao bóng rổ người Mỹ bị giam giữ Brittney Griner, các cơ quan tình báo Nga – đặc biệt là SVR và FSB – đã nhận ra rằng các cuộc trao đổi con tin có thể ảnh hưởng mạnh mẽ đến dư luận ở các quốc gia mục tiêu. Do đó, Moscow đã biến những người nước ngoài bị bắt, bao gồm người Pháp, Đức, và Mỹ, thành một hình thức đòn bẩy đáng kể trong các cuộc đàm phán địa chính trị.

Putin cùng các giám đốc cơ quan tình báo sau một cuộc trao đổi tù nhân, Moscow, tháng 8/2024 © Mikhail Voskresensky / Reuters

Hiện nay, vai trò của các cơ quan tình báo Nga trong việc bắt giữ và trao đổi con tin đang trở nên được thể chế hóa. Cách đây vài năm, FSB bắt đầu nổi lên như một kênh hậu trường giữa Mỹ và Nga, vậy nên không có gì ngạc nhiên khi cơ quan này đóng vai trò chính trong các cuộc đàm phán về việc thả nhà báo người Mỹ Evan Gershkovich vào năm 2024. Sergei Naryshkin, người đứng đầu SVR, đã tham gia vào các cuộc đàm phán như vậy với Washington suốt một thời gian khá dài, bao gồm cả trong năm 2022, khi giám đốc CIA khi đó là William Burns gặp Naryshkin tại Ankara. Trong số các mục trong chương trình nghị sự của cuộc họp đó, bên cạnh việc sử dụng vũ khí hạt nhân, còn có vấn đề về tù nhân Mỹ ở Nga.

Gần đây hơn, khi các quan chức Điện Kremlin bắt đầu đàm phán sơ bộ với các quan chức chính quyền Trump tại Riyadh về một thỏa thuận với Ukraine, Naryshkin đã xuất hiện trong phái đoàn Nga, và một phần nguyên nhân có thể là để tận dụng vấn đề con tin. Đáng chú ý, những cuộc đàm phán đó đã diễn ra trước khi giáo viên người Mỹ Marc Fogel được trả tự do sau khi bị giam giữ tại Nga vì tàng trữ cần sa y tế; trong một buổi lễ công khai, Trump đã ca ngợi sự trở lại của Fogel và chào đón ông tại Nhà Trắng. Các cuộc trao đổi con tin dựa trên một số động lực có đi có lại vốn được Trump ưa thích trong cách tiếp cận của ông khi đàm phán, theo đó khiến cho khả năng Nga sẽ tiếp tục bắt thêm tù nhân phương Tây càng cao. Vào ngày 11/03, Naryshkin đã có cuộc điện đàm đầu tiên với giám đốc CIA của Trump, John Ratliff, và theo hãng thông tấn nhà nước Nga, TASS, hai bên đã đồng ý “duy trì liên lạc thường xuyên.”

THÊM BÓNG TỐI, THÊM LỪA DỐI

Kể từ năm 2022, các cơ quan tình báo Nga cũng đã liên kết chặt chẽ lựa chọn phá hoại với chiến dịch đàn áp xuyên quốc gia lâu đời hơn của họ. Điện Kremlin có truyền thống lâu đời trong việc sử dụng nhiều công cụ khác nhau để chống lại kẻ thù và các nhân vật đối lập lưu vong, thường là ở cùng những quốc gia mà hiện tại họ đang thực hiện hành vi phá hoại, bao gồm Đức, Anh, và các nước Baltic. Đơn vị cảnh sát mật của Nga có lẽ chính là những người đã phát minh ra đàn áp xuyên quốc gia: bắt đầu từ nửa sau thế kỷ 20, cảnh sát mật của Sa hoàng đã xâm nhập và quấy rối những người Nga di cư chính trị sang Pháp và Thụy Sĩ. Những người kế nhiệm Liên Xô của họ đã leo thang đáng kể các chiến thuật này, thậm chí sử dụng cả các vụ ám sát chính trị. Kể từ những năm đầu của thế kỷ 21, các điệp viên của Putin cũng làm điều tương tự khi tấn công những nhân vật đối lập đã xin tị nạn ở nước ngoài.

Nhưng các chiến dịch đàn áp xuyên quốc gia của Nga đang dần trở nên tinh vi hơn và thường liên quan đến việc đổ lỗi cho các bên khác. Ví dụ, vào đầu tháng 2, SVR đã công khai cáo buộc các cơ quan tình báo Ukraine “chuẩn bị các cuộc tấn công” chống lại phe đối lập hoặc các doanh nhân Nga đang tị nạn ở nước ngoài. SVR khẳng định rằng: nếu bị bắt, những kẻ tấn công tiềm năng này sẽ “đổ lỗi cho các cơ quan đặc nhiệm Nga, nói rằng các cuộc tấn công đã được dàn dựng theo mệnh lệnh của họ.”

Các cộng đồng người Nga lưu vong trên khắp châu Âu đã nhanh chóng hiểu được tầm quan trọng của thông báo này: SVR đang đặt nền móng cho một loạt các cuộc tấn công mới nhắm vào những người Nga lưu vong, bằng cách đổ lỗi cho Ukraine trước. Và việc Moscow đổ lỗi cho Ukraine về các hoạt động của Nga ở phương Tây sẽ chỉ tiếp tục tăng lên. Từ giờ trở đi, những cuộc tấn công này, bao gồm các nỗ lực ám sát, đốt phá, và tấn công cơ sở hạ tầng, nhiều khả năng sẽ bị gán cho tình báo Ukraine để khiến dư luận châu Âu quay lưng lại với Ukraine.

Những nỗ lực này cho thấy một sự thay đổi trong chiến lược của Nga. Trong những năm sau năm 2016, các điệp viên tình báo của Moscow bỗng chốc trở nên trơ tráo và cẩu thả hơn, như thể họ không thực sự quan tâm đến việc bị vạch trần hoặc giam giữ. Hãy xem xét vụ một tên sát thủ người Nga đi xe đạp đã bắn một người ly khai Chechnya ở trung tâm Berlin ngay giữa ban ngày và gần như ngay lập tức bị cảnh sát Đức bắt giữ khi hắn ta vứt khẩu súng lục và chiếc xe đạp của mình xuống Sông Spree ở gần đó. Trong chừng mực nào đó, những điệp viên người Nga như hắn ta chỉ đơn giản là không quan tâm: họ quyết tâm chứng minh, bằng những hành động trơ tráo của mình, rằng những nỗ lực của phương Tây nhằm vạch trần và buộc tội hình sự họ là không có hiệu quả.

Tuy nhiên, các cơ quan gián điệp giờ đây đang chuyển sang chế độ bí mật hơn. Chiến tranh Ukraine đã khiến người Nga khó thiết lập các chiến dịch của riêng họ ở châu Âu, nhưng những thay đổi gần đây trong hoạt động gián điệp – chẳng hạn như sử dụng các công dân châu Âu thuê ngoài để thực hiện các phi vụ riêng lẻ, không liên quan đến các mạng lưới gián điệp đã được thiết lập từ trước ở các quốc gia mục tiêu – đã giúp họ vượt qua trở ngại.

Trong những ghi chép mà ông đã lén mang từ Moscow, vị thủ thư và kẻ đào tẩu của KGB Vasili Mitrokhin đã mô tả quá trình chuẩn bị tỉ mỉ của Liên Xô hồi thập niên 1960 cho một cuộc tấn công phá hoại vào Cụm Phòng không Tích hợp của NATO trên Núi Parnitha, gần Athens. Phương pháp được chọn để vô hiệu hóa cơ sở này là đốt phá bằng các thiết bị kỹ thuật do phòng thí nghiệm Dịch vụ “F” của KGB phát triển. Những thiết bị này được ngụy trang thành các bao thuốc lá Hy Lạp, bên trong chứa các chất nổ dễ cháy có thể được đốt cháy bất cứ lúc nào bằng các cơ chế tích hợp, đã tính đến không khí loãng trên núi. Tất nhiên, chiến dịch cũng đòi hỏi một số nhân sự đặc nhiệm được đào tạo bài bản. Nếu cuộc tấn công này thực sự diễn ra, sẽ rất khó để không quy nó cho một quốc gia thù địch.

Putin đã sử dụng một mô hình tương tự trong những năm đầu nắm quyền. Trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21, khi các cơ quan tình báo Nga thực hiện các vụ ám sát ở nước ngoài, những cuộc tấn công đó rõ ràng mang dấu hiệu của nhà nước Nga, với việc những kẻ tấn công sử dụng polonium hoặc chất độc thần kinh cấp quân sự Novichok. Nhưng giờ đây, điều này không còn đúng nữa. Hầu hết các chiến dịch phá hoại mà Điện Kremlin phát động trong hai năm qua đều không có dấu vết dẫn trực tiếp đến Nga. Và nhiều hoạt động cũng liên quan đến những kẻ phá hoại địa phương được tuyển dụng thông qua mạng xã hội để thực hiện các phi vụ riêng lẻ với giá vài trăm đô la.

MẤT TẬP TRUNG

Dù có bằng chứng rõ ràng cho thấy Điện Kremlin đã phát triển một chiến lược chiến tranh hỗn hợp có hệ thống và ngày càng nguy hiểm, các nhà lãnh đạo phương Tây vẫn chưa thể đưa ra một chiến lược ứng phó đầy đủ để ngăn chặn nó. Hiện tại, các chiến thuật nêu tên và bêu xấu mà Mỹ và các đồng minh châu Âu áp dụng sau sự can thiệp của Nga vào cuộc bầu cử Mỹ năm 2016 vẫn là một phần quan trọng trong phản ứng của phương Tây.

Vào tháng 11/2024, một tòa án London đã bắt đầu xét xử một nhóm người Bulgaria bị buộc tội làm gián điệp cho các cơ quan của Nga – bao gồm theo dõi căn cứ quân sự Mỹ tại Stuttgart, nơi quân đội Ukraine được cho là đang được huấn luyện, lên kế hoạch tấn công đại sứ quán Kazakhstan tại London, và tấn công hai nhà báo điều tra phản đối Điện Kremlin, cũng như một chính trị gia Kazakhstan lưu vong tại London. Sang đầu tháng 3, tất cả các bị cáo đều bị kết tội trong một nỗ lực lớn hơn nhằm vạch trần và trừng phạt những kẻ thông đồng với Moscow. Một số quốc gia châu Âu dường như cũng đang cố gắng giảm tác động của các cuộc tấn công phá hoại do các điệp viên Nga thực hiện bằng cách phủ nhận hoặc hạ thấp quy mô của chúng.

Biểu tình trước đại sứ quán Mỹ ở Kyiv, tháng 3/2025 © Valentyn Ogirenko / Reuters

Những điều hứa hẹn hơn là các nỗ lực gần đây nhằm tăng cường an ninh. Chẳng hạn, một số quốc gia châu Âu đã triển khai các biện pháp mới nhằm bảo vệ cáp viễn thông, đường ống dẫn dầu, và cơ sở hạ tầng quan trọng khác ở vùng Baltic, gần Nga. Nỗ lực này bao gồm màn ra mắt vào tháng 1 của một hệ thống phản ứng do Anh đứng đầu, nhằm theo dõi các mối đe dọa tiềm tàng đối với cơ sở hạ tầng dưới nước, cũng như giám sát hạm đội bóng tối của Nga – một đội tàu cũ kỹ và được bảo dưỡng kém, hoạt động bằng cách treo cờ thuận tiện, và có hệ thống quyền sở hữu và quản lý không rõ ràng – như một phần của Lực lượng Viễn chinh Liên hợp gồm mười quốc gia.

Tuy nhiên, sự hỗn loạn trong cộng đồng tình báo Mỹ do quyết định tái định hướng của Trump nghiêng về Moscow đã khiến việc xây dựng một phản ứng toàn diện của phương Tây trở nên khó khăn hơn. Các báo cáo công khai về đề nghị nghỉ việc tự nguyện của chính quyền Trump dành cho các thành viên của CIA đã được người Nga vui mừng đón nhận. Cùng lúc đó, chính quyền Mỹ cũng đặt ra các ưu tiên mới cho tình báo nước mình – bao gồm nhắm mục tiêu vào các băng đảng ma túy ở Mexico và tập trung nhiều hơn vào Trung Quốc – thay vì vào Nga và hỗ trợ cho Ukraine. Đối với các cơ quan gián điệp của Moscow, những động thái này có thể được khai thác như các cơ hội để tăng cường hoạt động của họ ở phương Tây.

Nếu động thái của Trump khiến hoạt động giám sát Nga bị suy giảm đáng kể, thì đây sẽ không phải là lần đầu tiên cộng đồng tình báo Mỹ mất tập trung. Hồi thập niên 1990, sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, sự chú ý cũng từng bị chuyển hướng khỏi Nga, dẫn đến việc Washington mất đi một lượng lớn chuyên môn về các vấn đề liên quan đến Nga và đánh giá thấp các rủi ro tiềm tàng. Sự suy giảm tình báo này rất có thể đã góp phần vào việc phương Tây đánh giá sai Putin trong những năm đầu nắm quyền, khi ông đặt nền móng cho chế độ độc tài mới của Nga cũng như cuộc đối đầu với Châu Âu và Mỹ. Sẽ là thảm họa nếu chúng ta lặp lại sai lầm này một lần nữa.

Andrei Soldatov là nghiên cứu viên không thường trú tại Trung tâm Phân tích Chính sách Châu Âu, Đồng sáng lập và Tổng Biên tập của Agentura.ru, một trang tin chuyên giám sát các hoạt động của cơ quan mật vụ Nga.

Irina Borogan là nghiên cứu viên không thường trú tại Trung tâm Phân tích Chính sách Châu Âu, Đồng sáng lập và Phó Tổng Biên tập của Agentura.ru.

Cả hai là đồng tác giả của cuốn “Our Dear Friends in Moscow: The Inside Story of a Broken Generation.”