Nguồn: Ely Ratner, “The Case for a Pacific Defense Pact”, Foreign Affairs, 27/05/2025
Biên dịch: Viên Đăng Huy
Đã đến lúc Mỹ xây dựng một hiệp ước phòng thủ tập thể ở châu Á. Trong nhiều thập kỷ, một hiệp ước như vậy vừa không thể thực hiện được vừa không cần thiết. Nhưng ngày nay, trước mối đe dọa ngày càng tăng từ Trung Quốc, nó vừa khả thi vừa thiết yếu. Các đồng minh của Mỹ trong khu vực đã và đang đầu tư vào hệ thống phòng thủ của riêng họ và tăng cường các mối quan hệ quân sự sâu sắc hơn. Nhưng nếu không có cam kết mạnh mẽ đối với phòng thủ tập thể, khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang đi trên con đường dẫn đến sự bất ổn và xung đột.
Bỏ qua những thay đổi chiến thuật, khát vọng địa chính trị của Bắc Kinh về “sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa” vẫn không thay đổi. Trung Quốc tìm cách chiếm Đài Loan, kiểm soát Biển Đông, làm suy yếu các liên minh của Mỹ và cuối cùng thống trị khu vực. Nếu thành công, kết quả sẽ là một trật tự do Trung Quốc lãnh đạo, đẩy Mỹ xuống hàng một cường quốc lục địa bị suy yếu: kém thịnh vượng hơn, kém an ninh hơn, và không thể tiếp cận hoặc hoàn toàn dẫn đầu các thị trường và công nghệ quan trọng nhất thế giới.
Sau nhiều thập kỷ dồn nguồn lực vào lực lượng vũ trang của mình, Trung Quốc có thể sớm có sức mạnh quân sự để biến tầm nhìn đó thành hiện thực. Như Giám đốc CIA William Burns đã tiết lộ vào năm 2023, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã chỉ thị quân đội của mình “sẵn sàng xâm chiếm Đài Loan vào năm 2027”. Nhưng như Burns đã lưu ý, các nhà lãnh đạo Trung Quốc “có những nghi ngờ về việc liệu họ có thể hoàn thành cuộc xâm lược đó hay không”. Duy trì những nghi ngờ đó — không những liên quan đến Đài Loan mà còn cả các mục tiêu tiềm năng khác trong khu vực — nên là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Điều đó đòi hỏi phải thuyết phục Bắc Kinh rằng bất kỳ cuộc tấn công nào cuối cùng cũng sẽ phải trả cái giá không thể chấp nhận được.
Với mục tiêu đó, Mỹ đã đầu tư vào các năng lực quân sự tiên tiến và phát triển các khái niệm tác chiến mới. Mỹ đã điều động các lực lượng quân sự cơ động và nguy hiểm hơn đến các địa điểm chiến lược trên khắp châu Á. Quan trọng hơn, Mỹ đã đại tu các quan hệ đối tác an ninh của mình trong khu vực. Trong những thập kỷ trước, trọng tâm chính của Washington là xây dựng các mối quan hệ song phương chặt chẽ. Ngược lại, trong những năm gần đây, Mỹ đã theo đuổi một cách tiếp cận theo mạng lưới hơn, trao cho các đồng minh của Mỹ nhiều trách nhiệm hơn và khuyến khích các mối quan hệ chặt chẽ hơn không chỉ với Washington mà còn giữa các đồng minh. Những thay đổi này đang tạo ra những thách thức quân sự và địa chính trị mới cho Bắc Kinh, từ đó củng cố những nghi ngờ của Trung Quốc về khả năng thành công của hành động gây hấn.
Cách tiếp cận đa phương mới, cởi mở hơn đánh dấu một bước quan trọng hướng tới khả năng răn đe mạnh mẽ hơn. Nhưng các sáng kiến phòng thủ mà nó tạo ra vẫn còn chưa quy củ và sơ khai. Trước sự hiện đại hóa quân sự không ngừng của Trung Quốc, khả năng răn đe thực sự đòi hỏi ý chí và năng lực mà chỉ một thỏa thuận phòng thủ tập thể mới có thể mang lại. Một liên minh như vậy — gọi là “Hiệp ước phòng thủ Thái Bình Dương” — sẽ ràng buộc các quốc gia hiện đang liên kết và chuẩn bị tốt nhất để cùng nhau đối phó với thách thức Trung Quốc: Úc, Nhật Bản, Philippines và Mỹ. Các thành viên bổ sung có thể tham gia khi điều kiện cho phép.
Những người hoài nghi có thể lập luận rằng một thỏa thuận như vậy là không khả thi với một chính quyền Trump dường như bác bỏ tầm quan trọng của các liên minh của Mỹ. Nhưng thực tế là các nhà lãnh đạo ở Washington và các cường quốc đồng minh vẫn đang nỗ lực làm sâu sắc thêm hợp tác quân sự ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương bất chấp những căng thẳng kinh tế và ngoại giao. Cho đến nay, về các vấn đề quốc phòng, đã có sự ổn định hơn là sự gián đoạn. Với điều kiện chính quyền tránh các biện pháp kinh tế gây suy yếu nhắm vào các đồng minh của Mỹ, các xu hướng chỉ ra con đường hướng tới phòng thủ tập thể trong khu vực có khả năng sẽ kéo dài. Và nếu chính quyền Trump cuối cùng thiếu tầm nhìn và tham vọng để nắm bắt cơ hội này, các cơ quan quốc phòng vẫn có thể và nên đặt nền móng cho các nhà lãnh đạo tương lai.
Thời thế đã thay đổi
Đây không phải là lần đầu tiên Washington đối mặt với câu hỏi làm thế nào để thiết kế các quan hệ đối tác an ninh ở châu Á. Sau Thế chiến II, Mỹ đã xây dựng một mạng lưới liên minh trong khu vực, với hy vọng ngăn chặn sự bành trướng của Liên Xô, củng cố sự hiện diện quân sự của chính mình—đặc biệt ở Đông Á—và kiềm chế căng thẳng nội bộ giữa các đối tác. Mạng lưới này, được tạo thành từ các thỏa thuận an ninh riêng biệt với Úc và New Zealand, Nhật Bản, Philippines, Hàn Quốc, Đài Loan và Thái Lan, đã phục vụ hiệu quả cho các thành viên của nó. Mạng lưới này đã bảo vệ những vùng rộng lớn của khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương khỏi xung đột cường quốc, tạo điều kiện cho nhiều thập kỷ tăng trưởng kinh tế đáng kể. Nó cũng chứng tỏ khả năng chống chịu, vượt qua các cuộc chiến ở Triều Tiên và Việt Nam, các làn sóng phi thực dân hóa và dân chủ hóa liên tiếp, và thậm chí cả sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh.
Đáng chú ý, mạng lưới này chưa bao giờ phát triển vượt ra ngoài một tập hợp các liên minh riêng biệt và gần như độc quyền song phương. Ở châu Âu, các quan chức Mỹ đã chấp nhận khái niệm phòng thủ tập thể: một cuộc tấn công vào một đồng minh sẽ được coi là một cuộc tấn công vào tất cả. (Đây là logic đằng sau việc thành lập NATO, Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, vào năm 1949.) Tuy nhiên, ở châu Á, những khát vọng tương tự đã không thành công. Như John Foster Dulles, một trong những kiến trúc sư của trật tự an ninh hậu chiến của Mỹ, đã viết trên những trang này vào năm 1952, ngay trước khi ông trở thành ngoại trưởng: “Hiện tại, vẫn chưa khả thi để vạch ra một ranh giới có thể đưa tất cả các quốc gia tự do ở Thái Bình Dương và Đông Á vào một khu vực an ninh chung chính thức”.
Về phần mình, nhiều nhà lãnh đạo châu Á ưa thích các mối quan hệ song phương mạnh mẽ với Mỹ hơn là những mối liên kết chặt chẽ hơn với các đối thủ cũ hoặc đối thủ lịch sử. Một số lo ngại rằng một thỏa thuận phòng thủ tập thể sẽ kéo họ vào một cuộc đụng độ siêu cường giữa Washington và Moscow. Những người khác nghi ngờ rằng bất kỳ thể chế nào như vậy có thể vượt qua những di sản của xung đột và sự mất lòng tin lẫn nhau giữa các nước láng giềng và tập hợp các thành viên xa cách cả về mặt địa lý và về mặt lo ngại an ninh. Ngoại lệ duy nhất, Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á, đã chứng minh điều đó. Được thành lập vào năm 1954, SEATO là một liên minh hỗn tạp giữa Úc, Pháp, New Zealand, Pakistan, Philippines, Thái Lan, Anh và Mỹ. Tổ chức này thiếu sự đoàn kết và âm thầm tan rã vào năm 1977.
Nhưng thời thế đã thay đổi. Các điều kiện từng ngăn cản sự liên kết đa phương ở châu Á đang nhường chỗ cho những lời kêu gọi mới về phòng thủ tập thể. Ngay trước khi nhậm chức vào năm ngoái, Thủ tướng Nhật Bản Shigeru Ishiba đã cảnh báo rằng “việc không có một hệ thống phòng thủ tập thể như NATO ở châu Á có nghĩa là các cuộc chiến tranh có khả năng xảy ra”. Trên thực tế, một hiệp ước phòng thủ tập thể như vậy hiện đang nằm trong tầm tay. Ba xu hướng củng cố kết luận này: một sự liên kết chiến lược mới tập trung vào mối đe dọa ngày càng tăng từ Trung Quốc, một sự hội tụ mới về hợp tác an ninh giữa các đồng minh của Mỹ và nhu cầu về một sự tương hỗ mới mang lại cho các đối tác của Mỹ vai trò lớn hơn trong việc duy trì hòa bình.
Chung một mục tiêu
Sự quyết đoán của Trung Quốc trên khắp khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang gieo rắc cảm giác bất an, đặc biệt khi các nhà lãnh đạo ở Bắc Kinh dựa vào quân đội như một công cụ trung tâm trong các mục tiêu xét lại của họ. Các hoạt động nguy hiểm và đe dọa của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA), kết hợp với khả năng đang phát triển nhanh chóng của họ, đã thúc đẩy các nhà lãnh đạo trong khu vực áp dụng các chiến lược phòng thủ mới chống lại điều mà họ coi là mối đe dọa ngày càng tăng từ Trung Quốc. Các khoản đầu tư và hoạt động quân sự mới đã theo sau.
Không nơi nào sự tái định hướng chiến lược này rõ ràng hơn ở Tokyo. Mặc dù có sự phụ thuộc kinh tế sâu sắc giữa Trung Quốc và Nhật Bản, quan hệ giữa hai nước đã yếu kém trong nhiều thập kỷ, căng thẳng bởi sự thù địch lịch sử, căng thẳng thương mại và tranh chấp lãnh thổ. Quan hệ chỉ xấu đi trong những năm gần đây, khi Bắc Kinh tận dụng sức mạnh kinh tế và quân sự đang phát triển của mình để gia tăng áp lực lên nước láng giềng. Một luật mới, được thông qua vào năm 2021, cho phép lực lượng bảo vệ bờ biển Trung Quốc sử dụng vũ khí chống lại các tàu nước ngoài đi vào vùng biển mà Bắc Kinh coi là lãnh hải của mình. Trong những năm kể từ đó, các cuộc xâm nhập của Trung Quốc vào các khu vực xung quanh địa điểm mà Nhật Bản gọi là quần đảo Senkaku—do Nhật Bản quản lý nhưng cũng được Trung Quốc tuyên bố chủ quyền, gọi là quần đảo Điếu Ngư—đã trở nên thường xuyên hơn, với số lượng tàu lớn hơn và vũ trang mạnh hơn. Vào tháng 3, các tàu của lực lượng bảo vệ bờ biển Trung Quốc đã xâm nhập vùng biển lãnh thổ xung quanh các đảo và nán lại gần 100 tiếng—đây là vụ việc kéo dài nhất cho đến nay trong một chuỗi các sự cố mà nhà ngoại giao hàng đầu của Nhật Bản mô tả là “rõ ràng đang leo thang”.
Tokyo đang phản ứng bằng cách nới lỏng các ràng buộc chính trị và pháp lý lâu đời đối với lực lượng vũ trang của mình. Ngay từ năm 2013, chiến lược an ninh quốc gia được công bố công khai lần đầu tiên của Nhật Bản đã cảnh báo về các hoạt động “mở rộng và tăng cường nhanh chóng” của Trung Quốc xung quanh lãnh thổ của Nhật Bản. Không lâu sau đó, chính phủ Nhật Bản đã diễn giải lại hiến pháp hòa bình của đất nước, cho phép lực lượng vũ trang của họ hợp tác chặt chẽ hơn với các quân đội đối tác. Trong những năm gần đây, họ đã bắt tay vào một cuộc tăng cường quân sự mang tính lịch sử, cam kết tăng gấp đôi chi tiêu quân sự lên khoảng hai phần trăm GDP. Tokyo cũng đã vượt ra ngoài trọng tâm ban đầu về khả năng phòng thủ và hiện đang đặt mục tiêu mua sắm và triển khai “khả năng phản công,” bao gồm hàng trăm tên lửa Tomahawk tầm xa. Những thay đổi này, như nhà khoa học chính trị và chuyên gia về Nhật Bản Michael Green đã viết vào năm 2022, đang định vị Nhật Bản trở thành “nước xuất khẩu an ninh ròng quan trọng nhất ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương”.
Philippines đang trải qua một sự chuyển đổi tương tự. Trong nhiều thập kỷ, lực lượng vũ trang Philippines đã chiến đấu với quân nổi dậy ở các vùng phía nam của quần đảo. Các khoản đầu tư và chiến dịch quân sự phản ánh trọng tâm trong nước đó. Ngày nay, cuộc nổi dậy đã suy yếu, nhưng một mối đe dọa bên ngoài ngày càng lớn hơn: sự xâm lấn liên tục của Trung Quốc đối với các quyền hàng hải và chủ quyền của Philippines, chủ yếu ở Biển Đông. Trong những năm 2010, Bắc Kinh đã tiến hành một chiến dịch bồi lấp đất chưa từng có và xây dựng các căn cứ quân sự trên các rạn san hô và đảo nhỏ mà Philippines và các quốc gia Đông Nam Á khác cũng tuyên bố chủ quyền. Trung Quốc đã phong tỏa một trong những đảo san hô này, Bãi cạn Scarborough, từ chối quyền tiếp cận của các tàu đánh cá Philippines. Tại một rạn san hô khác, Bãi Cỏ Mây, các cuộc tấn công bạo lực của các tàu Trung Quốc đã phá vỡ các nỗ lực tiếp tế nhân viên quân sự Philippines. Các tàu của lực lượng bảo vệ bờ biển Trung Quốc thậm chí còn quấy rối các tàu tiến hành thăm dò năng lượng bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines.
Quan điểm từ Manila cũng đã trở nên rõ ràng hơn từ đó. Bắt đầu dưới thời Tổng thống Rodrigo Duterte vào cuối những năm 2010 và tăng tốc dưới thời người kế nhiệm ông, Ferdinand Marcos, Jr., quân đội Philippines đã và đang thực hiện một nỗ lực hiện đại hóa đầy tham vọng. Chính phủ đã thông qua một chiến lược phòng thủ mang tính bước ngoặt vào năm 2024 để bảo đảm an ninh vùng ngoại vi của đất nước bằng các khoản đầu tư vào máy bay chiến đấu bổ sung, hệ thống phòng thủ mạng mạnh hơn và nhiều tài sản không người lái hơn cho tình báo, giám sát và trinh sát. Không có gì phải nghi ngờ về điều gì đang thúc đẩy cuộc cải tổ: nhu cầu giám sát và đối đầu tốt hơn với các hoạt động cưỡng chế của Trung Quốc.
Ở Canberra, cách vài nghìn dặm về phía nam, sự trỗi dậy của Trung Quốc từng được coi là lành tính và có lợi cho lợi ích của Úc. Tuy nhiên, một loạt các sự cố ngoại giao và quân sự trong thập kỷ qua đã thuyết phục nhiều người rằng điều ngược lại là đúng. Những tiết lộ về ảnh hưởng xấu của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong các cuộc bầu cử và hoạch định chính sách của Úc đã châm ngòi cho một cơn bão chính trị. Và sau khi chính phủ Úc kêu gọi một cuộc điều tra độc lập về nguồn gốc của đại dịch COVID-19, Trung Quốc đã tung ra một loạt các rào cản thuế quan và các hạn chế khác đối với hàng xuất khẩu của Úc.
Ở Biển Đông, lực lượng vũ trang Úc đã phải chịu đựng cùng một kiểu quấy rối thâm hiểm của các máy bay phản lực và tàu chiến Trung Quốc. PLA cũng đang triển khai gần bờ biển Úc hơn bao giờ hết. Đầu năm nay, các tàu hải quân Trung Quốc đã đi vòng quanh Úc và làm gián đoạn giao thông hàng không thương mại bằng các cuộc tập trận bắn đạn thật ở biển Tasman. Và trong bối cảnh những nỗ lực tăng cường an ninh của Trung Quốc với Papua New Guinea, Quần đảo Solomon và các quốc gia đảo Thái Bình Dương khác, Bộ trưởng Ngoại giao Úc đã tuyên bố vào năm 2024 rằng đất nước của bà hiện đang “trong tình trạng cạnh tranh vĩnh viễn ở Thái Bình Dương.”
Trong bối cảnh đó, Canberra cũng đang xem xét lại các ưu tiên phòng thủ của mình từ trên xuống dưới. Mới đây vào năm 2016, quan điểm chính thức của chính phủ là một cuộc tấn công quân sự của nước ngoài vào lãnh thổ của họ “không hơn là một viễn cảnh xa vời”. Đến năm 2024, chiến lược phòng thủ quốc gia cập nhật của họ đã cảnh báo rằng, do thực tế hiện tại ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, “không còn khoảng thời gian 10 năm cảnh báo chiến lược cho xung đột”. Thay vì chuẩn bị cho nhiều tình huống bất ngờ trên khắp thế giới, bao gồm chống khủng bố ở Trung Đông, Lực lượng Phòng vệ Úc đang chuẩn bị để chống lại các mối đe dọa lớn hơn gần nhà. Thủ tướng Anthony Albanese đã công bố kế hoạch chi tiêu quân sự kỷ lục, bao gồm các khoản đầu tư lớn vào kho dự trữ đạn dược quan trọng như hỏa lực tầm xa, tên lửa chống hạm và tên lửa phòng không. Các cải cách nhấn mạnh một niềm tin ngày càng tăng rằng địa lý thuận lợi của đất nước không còn cung cấp sự bảo vệ đầy đủ chống lại PLA. Công chúng cũng chia sẻ nỗi lo lắng đó: theo Viện Lowy, một viện nghiên cứu hàng đầu của Úc, tỷ lệ người Úc tin rằng Trung Quốc sẽ trở thành mối đe dọa quân sự đối với đất nước của họ đã tăng gần gấp đôi từ năm 2012 đến năm 2022. Con số này hiện đứng ở mức trên 70 phần trăm.
Các mục tiêu của Bộ Tứ
Nhật Bản, Philippines và Úc không chỉ nhận ra Trung Quốc là mối đe dọa chính và chung của họ; họ còn ngày càng thừa nhận rằng số phận của họ gắn liền với khu vực rộng lớn hơn. Điều này đúng ngay cả đối với những vấn đề nhạy cảm như Đài Loan, từng là một chủ đề cấm kỵ trong khu vực: “Một tình huống khẩn cấp ở Đài Loan là một tình huống khẩn cấp của Nhật Bản”, cựu Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã tuyên bố vào năm 2021. “Nếu Đài Loan xảy ra chuyện, chắc chắn chúng tôi sẽ bị cuốn vào”, người đứng đầu quân đội Philippines cảnh báo vào đầu năm nay.
Quan điểm cho rằng sự gây hấn của Trung Quốc sẽ gây ra những hậu quả lớn cho các quốc gia trên khắp khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đã dẫn đến sự tăng cường chưa từng có trong các quan hệ đối tác an ninh giữa Úc, Nhật Bản, Philippines và các cường quốc khu vực khác. Các nhà phân tích đã mô tả hợp tác quốc phòng giữa Úc và Nhật Bản nói riêng là mang “đặc điểm giống liên minh”. Một thỏa thuận tiếp cận tương hỗ mới cho phép quân đội Úc và Nhật Bản triển khai trên lãnh thổ của nhau. Tháng 8 năm 2023 đánh dấu chuyến thăm đầu tiên của các máy bay chiến đấu F-35 của Nhật Bản đến miền bắc Úc, chỉ vài ngày sau đó là cuộc triển khai đầu tiên của các máy bay F-35 của Úc để tập trận quân sự ở Nhật Bản.
Nhật Bản đang hoàn thiện một thỏa thuận tiếp cận tương tự với Philippines, quốc gia đã nổi lên trong những năm gần đây là nước nhận được hỗ trợ an ninh lớn nhất từ Nhật Bản. Vào tháng 2, các nhà lãnh đạo quốc phòng của hai nước đã công bố một loạt các biện pháp hợp tác an ninh chặt chẽ hơn. Trong một tuyên bố chỉ có thể được hiểu là một ám chỉ rõ ràng đến Trung Quốc, Bộ trưởng Quốc phòng Philippines đã giải thích rằng “mục tiêu chung” của Manila và Tokyo là chống lại “bất kỳ nỗ lực đơn phương nào nhằm định hình lại trật tự toàn cầu.”
Mục tiêu chung mới tìm thấy đó đã thúc đẩy một loạt các sáng kiến chồng chéo, bổ sung—mà vào năm 2024, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Lloyd Austin đã gọi là “sự hội tụ mới ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương”—xây dựng dựa trên trọng tâm truyền thống của Mỹ về các mối quan hệ song phương trong khu vực. Đặc biệt, chính quyền Biden đã nỗ lực bổ sung mô hình “trục và nan hoa” (hub-and-spoke) cũ bằng mô hình “mạng lưới” các mối quan hệ mà họ hình dung ở châu Á. Quan hệ đối tác AUKUS đã tập hợp Canberra, London và Washington để giúp Úc đóng tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân được trang bị vũ khí thông thường. Với tư cách là thành viên của Bộ Tứ Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, Úc, Ấn Độ, Nhật Bản và Mỹ đã hợp tác để cung cấp nhận thức về lĩnh vực hàng hải trên toàn khu vực. Các quan chức Mỹ cũng tăng cường hợp tác an ninh ba bên với Nhật Bản và Hàn Quốc.
Trong số nhiều đối tác tham gia vào những nỗ lực này, Canberra, Manila và Tokyo thường nổi bật là những yếu tố chung. Tại một cuộc họp của các nhà lãnh đạo vào năm 2024, chính phủ Nhật Bản, Philippines và Mỹ đã bày tỏ “mối quan ngại nghiêm trọng” về “hành vi nguy hiểm và hung hăng” của Trung Quốc và công bố các sáng kiến về đầu tư cơ sở hạ tầng và hợp tác công nghệ, cùng với các biện pháp khác. Cuối năm đó, các nhà lãnh đạo quốc phòng Úc, Nhật Bản và Mỹ đã công bố một loạt các hoạt động hợp tác khác, bao gồm các cuộc tập trận quân sự ba bên và hợp tác công nghiệp quốc phòng tiên tiến. Có lẽ hứa hẹn nhất trong số đó là một nhóm mới tập hợp cả bốn bên này—Úc, Nhật Bản, Philippines và Mỹ. Được biết đến một cách không chính thức là “Biệt đội” (để phân biệt với Bộ Tứ), nhóm này thường xuyên tiến hành các cuộc tập trận hải quân, hàng hải và không quân ở Biển Đông. Nhóm cũng có kế hoạch tăng cường chia sẻ thông tin và hợp tác để hiện đại hóa quân đội Philippines.
Khởi đầu thuận lợi
Sự hội tụ mới ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương thể hiện một sự phát triển sâu sắc trong kiến trúc an ninh của khu vực. Nhưng tốt nhất nên coi đó là một sự tiến hóa chưa hoàn chỉnh—một giai đoạn chuyển tiếp quan trọng chứ không phải là một trạng thái cuối cùng hoàn hảo. Những thiếu sót vẫn còn đáng kể. Không có nghĩa vụ phòng thủ chung giữa các đồng minh của Mỹ, chỉ với riêng Mỹ. Không có trụ sở trung tâm để lập kế hoạch và tiến hành các hoạt động đa phương. Và tính chất không chính thức của các nhóm này đồng nghĩa với không có kế hoạch thường xuyên giữa đội ngũ chính trị và quân sự. Sự phối hợp đang diễn ra, nhưng nó không liên tục. Do đó, nó hiếm khi nhận được sự cấp bách, quan tâm và nguồn lực cần thiết.
Một hiệp ước phòng thủ tập thể sẽ mang lại hiệu quả mà các cơ chế hiện tại còn thiếu sót. Để đạt được điều đó sẽ không yêu cầu một tổ chức an ninh toàn khu vực như NATO, vốn đã tăng từ 12 thành viên ban đầu lên hơn 30. Thay vào đó, điểm khởi đầu hợp lý cho Washington là hình thành một hiệp ước với ba đối tác được liên kết chiến lược nhất và có sự hợp tác quân sự kết hợp mạnh mẽ và phát triển nhanh nhất: Úc, Nhật Bản và Philippines.
Các thành viên bổ sung có thể tham gia sau này, tùy theo hoàn cảnh. Là một đồng minh tiên tiến và kiên cường ở Đông Á, Hàn Quốc sẽ là một ứng cử viên hiển nhiên, và những đóng góp của nước này có thể khá đáng kể. Nhưng Seoul sẽ phải quyết định liệu họ có sẵn sàng tập trung lực lượng phòng thủ của mình nhiều hơn vào Trung Quốc, hợp tác chặt chẽ hơn với Nhật Bản, và hỗ trợ một định hướng khu vực rộng lớn hơn cho quân đội của mình và hàng chục nghìn binh sĩ Mỹ đóng quân trên bán đảo. New Zealand sẽ là một đối tác tiềm năng khác, đặc biệt là vì nước này đã là một phần của nhóm chia sẻ thông tin tình báo Ngũ Nhãn cùng với Úc, Canada, Vương quốc Anh và Mỹ. Nhưng mặc dù New Zealand gần đây đã thể hiện sự sẵn sàng lớn hơn trong việc thách thức Trung Quốc và liên kết chặt chẽ hơn với Mỹ, nước này có thể chưa sẵn sàng tham gia một hiệp ước phòng thủ tập thể chính thức.
Các đối tác quan trọng của Mỹ như Ấn Độ và Singapore sẽ không cần phải tham gia ngay từ đầu nhưng vẫn có thể tham gia vào một số hoạt động nhất định với tư cách là quan sát viên hoặc với một tư cách không phải thành viên nào đó, như thường thấy trong các nhóm khu vực. Việc bao gồm Đài Loan sẽ không thể thực hiện được hoặc không được khuyến khích theo chính sách hiện tại của Mỹ, cũng như không được các thành viên khác của hiệp ước chấp nhận. Đối với các đồng minh châu Âu của Mỹ, họ hiện không sẵn sàng về mặt chính trị lẫn quân sự để tham gia với tư cách thành viên đầy đủ, nhưng lựa chọn đó có thể được xem xét trong tương lai, trong những hoàn cảnh khác. Ngân sách quốc phòng lớn hơn ở châu Âu có thể tạo ra các quân đội có tầm triển khai toàn cầu hơn, miễn là lục địa đó có an ninh và hòa bình.
Trước tính cấp bách của thách thức Trung Quốc, Mỹ không thể chờ đợi một sự liên kết hoàn hảo giữa tất cả các đối tác của mình. Đã có một nhóm cốt lõi được hình thành và có chỗ để xem xét các thành viên bổ sung trong tương lai. Công tác chuẩn bị nên bắt đầu ngay bây giờ. Do các liên minh với Mỹ đã tồn tại, nhiệm vụ hàng đầu là thiết lập các nghĩa vụ chung giữa Úc, Nhật Bản và Philippines. Điều này sẽ đòi hỏi sự lãnh đạo khéo léo và các cuộc đàm phán căng thẳng, nhưng những lợi ích của khả năng răn đe mạnh mẽ hơn và an ninh lớn hơn sẽ lớn hơn rủi ro của sự liên kết chặt chẽ hơn. Bên cạnh đó, đặc biệt đối với Úc và Nhật Bản, sự khác biệt thực tế giữa quan hệ đối tác quốc phòng ngày nay và một quan hệ đối tác phòng thủ chung là tương đối nhỏ và đang thu hẹp từng ngày.
Từ góc độ tác chiến, phòng thủ tập thể có thể xây dựng dựa trên các dự án hợp tác hiện có, bao gồm trong các lĩnh vực chia sẻ thông tin tình báo, nhận thức về lĩnh vực hàng hải, huấn luyện và diễn tập chung, và chỉ huy và kiểm soát. Một trong những dự án như vậy là Trung tâm Phân tích Tình báo Song phương, một nỗ lực chung mới giữa Mỹ và Nhật Bản tại Căn cứ Không quân Yokota được thiết lập để giám sát hoạt động của Trung Quốc ở Biển Hoa Đông. Nhật Bản và Mỹ có thể chia sẻ thông tin tình báo của trung tâm với Úc và Philippines, đổi lại, hai nước này có thể đóng góp nhân sự tại căn cứ không quân và cung cấp dữ liệu từ các nền tảng không người lái trên biển và trên không của họ. Tương tự, Trung tâm Phối hợp Chung Mỹ-Philippines mới được khánh thành gần Manila có thể bao gồm Úc và Nhật Bản, cung cấp các chức năng tương tự ở Biển Đông.
Quân đội Mỹ có các căn cứ tác chiến lớn ở Nhật Bản, quyền tiếp cận các địa điểm ở Philippines, và các đợt luân chuyển binh sĩ Mỹ thường xuyên trên khắp Úc. Với nền tảng pháp lý đầy đủ—bao gồm các thỏa thuận tiếp cận tương hỗ giữa ba đồng minh châu Á—mỗi thỏa thuận này có thể được mở rộng để bao gồm lực lượng từ các thành viên khác. Trên thực tế, đã có kế hoạch tích hợp lực lượng Nhật Bản vào các sáng kiến của Mỹ ở Úc.
Bốn thành viên cũng có thể đầu tư vào các cơ sở quân sự chung. Các cuộc tập trận quân sự song phương và ba bên lớn liên quan đến các sự kết hợp khác nhau của các đối tác có thể bao gồm cả bốn nước. Cùng nhau, họ có thể dễ dàng bố trí trước vũ khí để đảm bảo đủ dự trữ khi xảy ra xung đột, qua đó tăng cường hơn nữa khả năng răn đe. Việc thành lập một trụ sở cho Hiệp ước Phòng thủ Thái Bình Dương và các cơ chế chỉ huy và kiểm soát sẽ là điều cần thiết. Nhật Bản có thể là một địa điểm tiềm năng. Vào tháng 7 năm 2024, Mỹ đã công bố ý định nâng cấp bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại Nhật Bản để lập kế hoạch và chỉ đạo nhiều nhiệm vụ hơn trong khu vực với đối tác Nhật Bản của mình. Khi các cơ sở và liên kết truyền thông mới được thiết lập để hỗ trợ nỗ lực này, các quan chức Mỹ và Nhật Bản nên đảm bảo rằng có thể bao gồm các chỉ huy quân sự và nhân viên từ Úc và Philippines. Các địa điểm thay thế cho trụ sở có thể được xem xét ở Úc hoặc tại Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Mỹ ở Hawaii.
Bốn quốc gia nên thành lập một loạt các nhóm công tác để đàm phán toàn bộ các vấn đề chính sách và pháp lý liên quan đến việc lập kế hoạch và hoạt động tích hợp hơn. Các nhân viên quân sự và dân sự từ các bộ quốc phòng và ngoại giao có thể hợp tác để phát triển các đề xuất về quản trị và quy trình ra quyết định, bao gồm các cấu trúc nhân sự và cơ chế tham vấn tạo thành bộ phận cốt lõi của việc quản lý liên minh hàng ngày. Phạm vi nhiệm vụ rộng lớn này chỉ nhấn mạnh sự cần thiết phải bắt đầu tham vấn càng sớm càng tốt.
Tất cả vì mục tiêu chung
Ngoài việc tăng cường hợp tác tập thể với nhau, các đồng minh của Mỹ cũng sẽ cần phải tái cân bằng các quan hệ đối tác an ninh song phương của họ với Washington. Ở dạng hiện tại, các quan hệ đối tác đó phản ánh sự bất đối xứng của một kỷ nguyên khác, khi quyền bá chủ quân sự của Mỹ dường như không bị tranh chấp và không thể thay đổi. Các hiệp ước song phương trong khu vực bị hạn chế về phạm vi địa lý cụ thể tại địa phương, và sự đóng góp của quân đội đồng minh bị giới hạn bởi thiết kế. Về bản chất, Mỹ hứa hẹn bảo vệ để đổi lấy quyền tiếp cận quân sự và sự thân thiện về chính trị-kinh tế ở châu Á nhưng không yêu cầu sự bảo vệ hoàn toàn có qua có lại cho chính mình.
Khuôn khổ này có thể duy trì được—cả về mặt chiến lược và chính trị—chừng nào quân đội Mỹ còn duy trì sự thống trị của mình trong khu vực, mối đe dọa từ Trung Quốc còn bị hạn chế, và những đóng góp tiềm năng của các đồng minh Mỹ còn giới hạn trong việc tự vệ. Không một điều kiện nào trong số này còn đúng ngày nay. PLA hiện đặt ra những thách thức nghiêm trọng đối với quân đội Mỹ và lãnh thổ Mỹ. Và các đồng minh Mỹ ở châu Á hiện nằm trong số những quốc gia giàu có nhất và tiên tiến nhất thế giới, có khả năng đóng một vai trò quan trọng trong cả răn đe và chiến đấu. Để thích nghi với thực tế mới này, các liên minh của Mỹ cần được xây dựng trên một nền tảng không phải là bất đối xứng mà là có qua có lại.
Chính trị trong nước ở Mỹ cũng làm cho sự có qua có lại lớn hơn trở nên cần thiết. Mặc dù hầu hết người Mỹ về cơ bản ủng hộ quan hệ quân sự, nhưng ngày càng nhiều người muốn thấy các đồng minh Mỹ đóng góp nhiều hơn trên thực tế. Tổng thống Mỹ Donald Trump đã đặc biệt tập trung vào quan điểm rằng các đồng minh cần trả “phần tương xứng” của họ, đặt ra nghi ngờ về việc liệu Mỹ có bảo vệ các thành viên NATO không đáp ứng được mức chi tiêu quân sự nhất định hay không. Các đồng minh Mỹ cần chi tiêu nhiều hơn cho quốc phòng—nhưng nguyên tắc có qua có lại nên mở rộng vượt ra ngoài vấn đề tăng ngân sách quốc phòng.
Các đồng minh của Mỹ cũng sẽ cần cam kết với mức độ nghĩa vụ chung cao hơn với Mỹ. Ví dụ, Hiệp ước an ninh của Washington với Tokyo chỉ giới hạn trong “các lãnh thổ thuộc quyền quản lý của Nhật Bản”. Sự mất cân bằng này thể hiện rõ tại mỗi hội nghị thượng đỉnh song phương lớn. Tại đó, các nhà lãnh đạo Mỹ tái khẳng định cam kết bảo vệ Nhật Bản, trong khi các nhà lãnh đạo Nhật Bản lại im lặng về việc liệu lực lượng của họ có hỗ trợ quân đội Mỹ ở những nơi khác hay không. Thay vào đó, các đồng minh của Mỹ nên cam kết hỗ trợ Mỹ cả trong các cuộc khủng hoảng trên toàn khu vực và trong việc bảo vệ lãnh thổ Mỹ.
Sự có qua có lại mới này sẽ tiếp tục thúc đẩy phòng thủ tập thể. Kết quả của nghĩa vụ chung lớn hơn sẽ là các đồng minh của Mỹ có thể đảm nhận các vai trò và nhiệm vụ mới trong các cuộc khủng hoảng và xung đột, đặc biệt khi kết hợp với các khoản đầu tư gần đây vào quân đội của chính họ. Điều này, đổi lại, sẽ mở ra những con đường hợp tác mới mà hiện chưa thực sự hình thành: các thành viên của hiệp ước có thể soạn thảo các kế hoạch quân sự kết hợp, hướng mục tiêu chi tiêu quốc phòng của họ hiệu quả hơn vào các năng lực chuyên biệt và bổ sung, và diễn tập và cải thiện cùng nhau thông qua các cuộc tập trận và chiến dịch quân sự phù hợp. Những biện pháp này sẽ củng cố sức mạnh tập thể và khả năng răn đe của các liên minh Mỹ vượt xa những gì có thể dưới các cơ chế không chính thức hiện nay.
Sự có qua có lại lớn hơn cũng nên bao gồm sự rõ ràng hơn về điều mà các nhà chiến lược quân sự gọi là “tiếp cận, đồn trú và bay qua” — tức là khả năng quân đội Mỹ triển khai trong và xung quanh lãnh thổ của đồng minh. Do khoảng cách địa lý rất lớn, việc triển khai lực lượng Mỹ ở tiền phương là yếu tố then chốt để đảm bảo thời gian phản ứng nhanh và duy trì sức mạnh quân sự trong trường hợp khẩn cấp. Sự chắc chắn hơn về khả năng tiếp cận quân sự của Mỹ sẽ củng cố khả năng răn đe ở Tây Thái Bình Dương, bằng cách đảm bảo rằng Mỹ có đúng lực lượng và năng lực sẵn sàng chiến đấu ở đúng nơi. Quyền tiếp cận được đảm bảo hơn cũng sẽ dẫn đến các khoản đầu tư cơ sở hạ tầng lớn hơn và việc triển khai các năng lực tiên tiến hơn, điều này tiếp tục nâng cao tiềm năng sử dụng của nhiều địa điểm khác nhau. Mặc dù không nên mong đợi các đồng minh Mỹ cho phép quân đội Mỹ toàn quyền quyết định, một Hiệp ước Phòng thủ Thái Bình Dương mạnh mẽ sẽ đòi hỏi quyền tiếp cận linh hoạt và được đảm bảo hơn cho các lực lượng Mỹ.
Bốn trụ cột
Phòng thủ tập thể liên quan đến các vấn đề chủ quyền và nghĩa vụ hiệp ước, những vấn đề chính trị sâu sắc đòi hỏi các cuộc đàm phán căng thẳng và ngoại giao khéo léo. Điều này sẽ càng thách thức hơn nếu chính quyền Trump tiến hành các biện pháp trừng phạt thuế quan hoặc các biện pháp khác làm căng thẳng các liên minh của Washington trong khu vực. Nhưng ngay cả trong bối cảnh quan hệ ngoại giao căng thẳng, các cơ quan quốc phòng và quân sự vẫn có thể tiếp tục đặt nền móng cho phòng thủ tập thể. Nếu không có một sự đổ vỡ nghiêm trọng trong quan hệ, bốn đối tác nên làm tốt nhất có thể để tách biệt hợp tác an ninh khỏi những bất đồng kinh tế và ngoại giao. Mức độ rủi ro đơn giản là quá cao để làm điều ngược lại. Cũng cần nhấn mạnh rằng yêu cầu về các mối quan hệ có qua có lại hơn đã trở thành một mệnh lệnh chính trị và chiến lược vượt qua sự chia rẽ đảng phái ở Washington.
Bằng chứng cho đến nay cho thấy Mỹ và các đồng minh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang tìm cách tăng cường hợp tác quốc phòng bất chấp những trở ngại về chính trị và kinh tế. Điều này phần lớn là do mối đe dọa ngày càng tăng từ Trung Quốc, nhu cầu tiếp tục về sự hiện diện quân sự của Mỹ trong khu vực, và xu hướng hợp tác an ninh nội Á ngày càng tăng. Chắc chắn, chính quyền Trump có thể quá chia rẽ, phân tâm hoặc đối đầu để nắm giữ lợi thế mà họ đã có. Trong trường hợp đó, nhiều nền tảng cơ bản vẫn có thể được thiết lập cho một chính quyền tương lai. Với số lượng nhiệm vụ phía trước, một hiệp ước có thể sẽ không được hoàn thành cho đến chính quyền Mỹ tiếp theo.
Về phần mình, các nhà lãnh đạo ở Canberra, Manila và Tokyo sẽ cần giành được sự ủng hộ của công chúng trong nước. Ngoài các lập luận chiến lược về răn đe và an ninh quốc gia, Mỹ có thể hỗ trợ các cuộc đối thoại này bằng cách làm nổi bật những lợi ích tiềm năng cho các cử tri trong nước của các đồng minh. Những lợi ích này có thể bao gồm chia sẻ công nghệ, đầu tư cơ sở hạ tầng và cải thiện khả năng ứng phó thảm họa. Ở Mỹ, những người hoài nghi có thể yên tâm rằng một hiệp ước phòng thủ ở Thái Bình Dương sẽ không bao gồm các nghĩa vụ đối với quân đội Mỹ ngoài những gì đã có—nhưng nó sẽ giảm thiểu các mối đe dọa đối với nội địa Mỹ và quân đội Mỹ.
Trước ý nghĩa lịch sử của một thỏa thuận như vậy, Washington cũng nên chuẩn bị để quản lý các phản ứng và mối quan ngại từ các bên khác ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Các quan chức Mỹ có thể nhấn mạnh rằng một Hiệp ước Phòng thủ Thái Bình Dương sẽ chỉ là một trong một số thành phần trong cách tiếp cận của họ đối với khu vực. Trong cả lời nói và hành động, Washington nên cam kết duy trì một mạng lưới các thể chế chồng chéo và bổ sung, bao gồm Bộ Tứ Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và hợp tác ba bên với Nhật Bản và Hàn Quốc. Mục tiêu công khai của hiệp ước nên là theo đuổi một “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và rộng mở”, một mục tiêu được gần như mọi quốc gia trong khu vực chia sẻ.
Hơn nữa, hiệp ước nên tập trung vào quốc phòng thay vì bao gồm hoặc đảm nhận vai trò kinh tế và ngoại giao của các thể chế quan trọng khác. Thật vậy, hiệp ước sẽ thành công nhất nếu được bổ sung bởi một chương trình nghị sự thương mại khu vực mạnh mẽ, các nỗ lực ngoại giao tích cực và các chương trình hỗ trợ nước ngoài hiệu quả.
Các phản đối từ Bắc Kinh chắc chắn sẽ mạnh mẽ và dễ đoán. Trung Quốc từ lâu đã cáo buộc Mỹ có “tư duy Chiến tranh Lạnh” và theo đuổi “chính trị bè phái”. Các quan chức PLA đã cảnh báo rằng những nỗ lực hiện tại của Mỹ nhằm đưa các đối tác an ninh của Mỹ xích lại gần nhau hơn đang “buộc các quốc gia trong khu vực vào cỗ xe chiến tranh của Mỹ”. Những điệp khúc này sẽ nổi bật trong phản ứng của Trung Quốc chính vì một liên minh mạnh hơn có thể cản trở tham vọng xét lại của Bắc Kinh. Để đẩy lùi và khiến các thành viên tiềm năng phải suy nghĩ kỹ về một hiệp ước mới, Bắc Kinh có thể sẽ sử dụng sách lược truyền thống về thông tin sai lệch và cưỡng ép kinh tế. Với điều đó, Mỹ nên giúp các đồng minh của mình chuẩn bị cho những nỗ lực của Trung Quốc nhằm phá hoại một thỏa thuận phòng thủ tập thể ở châu Á.
Không điều nào trong số này sẽ dễ dàng. Nhưng những tiến bộ vĩ đại mà các đồng minh của Washington đã đạt được cũng không dễ dàng, không chỉ trong việc thừa nhận mối đe dọa từ Trung Quốc mà còn trong việc thực hiện các bước chưa từng có để đầu tư vào quân đội của chính họ, xây dựng mối quan hệ với các nước láng giềng và tăng cường các liên minh với Mỹ. Trên thực tế, trong những năm gần đây, Úc, Nhật Bản và Philippines đã có những động thái về các vấn đề quốc phòng và an ninh mà trước đây được coi là không thể xảy ra. Các điều kiện hiện đã được đặt ra cho một sự lãnh đạo mạnh mẽ để biến một hiệp ước phòng thủ tập thể ở châu Á từ một điều không thể tưởng tượng thành một đặc điểm định hình hòa bình và thịnh vượng trong tương lai của khu vực.
ELY RATNER là Giám đốc chương trình Sáng kiến Marathon. Từ năm 2021 đến 2025, ông giữ chức Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng phụ trách các vấn đề an ninh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương trong chính quyền Biden.