Nguồn: Derek Grossman, “Beijing’s Double Standards in the South China Sea,” Foreign Policy, 22/09/2025
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Việc Việt Nam mở rộng đáng kể diện tích đất nhân tạo trên 21 bãi đá, bãi cạn, và các thực thể khác mà nước này chiếm đóng ở Quần đảo Trường Sa thuộc Biển Đông có thể sẽ vượt qua quy mô cải tạo đất của chính Trung Quốc trong những năm tới. Đó là kết luận của một báo cáo gây chấn động gần đây từ Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á (AMTI), một viện chính sách có trụ sở tại Washington chuyên theo dõi các hoạt động nạo vét và san lấp của Hà Nội.
Theo quan sát của AMTI, tính đến tháng 3 năm nay, diện tích đất nhân tạo mà Việt Nam tạo ra bằng khoảng 70% diện tích mà Trung Quốc tạo ra trong bốn năm trước đó. Thông thường, tình hình này sẽ khiến Bắc Kinh đối đầu với Hà Nội bằng quân sự hoặc các biện pháp khác – tất cả đều nhằm mục đích áp đặt các yêu sách chủ quyền sâu rộng của Trung Quốc đối với vùng biển trong khu vực, bao gồm cả các thực thể và vùng biển nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) được quốc tế công nhận của Hà Nội.
Kỳ lạ thay, chẳng có điều gì trong số này xảy ra. Bắc Kinh vẫn giữ im lặng trước báo cáo của AMTI, chỉ trả lời câu hỏi của phóng viên bằng những luận điểm sáo rỗng. Và theo các nguồn tin của tôi, dù các cuộc đụng độ giữa tàu cá và lực lượng bảo vệ bờ biển của Trung Quốc và Việt Nam vẫn xảy ra ở Biển Đông, nhưng chúng thường là những sự cố nhỏ và không được báo cáo. So với cuộc đối đầu kéo dài tại Bãi Tư Chính trong vùng đặc quyền kinh tế của Hà Nội năm 2019, sáu năm qua diễn ra hết sức yên bình. Và dường như sự yên bình sẽ tiếp tục được duy trì bất chấp các hoạt động cải tạo đất mạnh mẽ của Việt Nam, nhiều khả năng sẽ bao gồm các cơ sở quân sự mới, như cầu tàu cho lực lượng bảo vệ bờ biển và hải quân, theo báo cáo của AMTI.
Điều này chắc chắn không đúng với một quốc gia khác cũng có tuyên bố chủ quyền hàng hải ở Đông Nam Á: Philippines. Trong nhiều năm, Manila đã khiến Bắc Kinh nổi giận trên khắp Biển Đông. Vào ngày 16/09 vừa qua, Trung Quốc đã phun vòi rồng vào một tàu Philippines mà họ cho là xâm phạm vùng biển xung quanh Bãi cạn Scarborough, chuỗi rạn san hô gần Đảo Luzon, đảo chính của Philippines. Vụ việc mới nhất này xảy ra trong bối cảnh Bắc Kinh kêu gọi chuyển đổi Bãi cạn Scarborough thành khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia của Trung Quốc, một động thái bị Manila bác bỏ.
Tháng trước, một vụ việc còn nghiêm trọng hơn đã xảy ra tại Bãi cạn Scarborough. Một tàu Hải quân Trung Quốc đã va chạm với một tàu Hải cảnh của nước này trong lúc đang truy đuổi một tàu Philippines, khiến các tàu bị hư hỏng nghiêm trọng và có thể có thương vong.
Trước khi ký kết thỏa thuận ngoại giao tạm thời vào tháng 07/2024, căng thẳng tại Bãi Cỏ Mây – nơi Manila đóng quân trên tàu Sierra Madre, một tàu chiến thời Thế chiến II bị mắc cạn có chủ ý – đã lên đến đỉnh điểm. Trong một lần tiếp tế thường lệ cho tiền đồn này, một thủy thủ Philippines đã bị mất ngón tay cái sau khi một tàu Hải cảnh Trung Quốc đâm vào tàu của anh. Ngoài ra, nhiều binh sĩ Philippines khác cũng bị thương do lực lượng Trung Quốc lên tàu tấn công bằng vũ khí thô sơ, bao gồm dao, rựa, giáo, và cả rìu.
Dù thông tin về Bãi Cỏ Mây đã lắng xuống kể từ khi thỏa thuận ngoại giao tạm thời có hiệu lực, nhưng tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc và Philippines xung quanh khu vực này vẫn tiếp tục diễn biến cực kỳ thù địch, làm gia tăng khả năng leo thang thành xung đột vũ trang trong tương lai.
Thật khó để biết chính xác điều gì thúc đẩy Bắc Kinh đưa ra những phản ứng hoàn toàn khác nhau đối với hai đối thủ này, nhưng có thể có một số nguyên nhân khả dĩ.
Thứ nhất, Trung Quốc có lẽ tin rằng Philippines, dưới thời Tổng thống Ferdinand Marcos Jr., đã củng cố đáng kể liên minh với Mỹ nhằm đối phó với Trung Quốc, và do đó Bắc Kinh đã để mất Manila về mặt chiến lược – chí ít là ở thời điểm hiện tại. Nếu phó tổng thống của Marcos, Sara Duterte, ra tranh cử và giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2028, thì tình hình có thể thay đổi, vì bà có thể chia sẻ quan điểm của cha mình, cựu Tổng thống Rodrigo Duterte, người tin rằng Philippines phải giảm bớt phụ thuộc vào liên minh với Mỹ và trở nên thân thiện hơn với Trung Quốc. Nhưng hiện tại thì chưa phải vậy, và Bắc Kinh chọn cách dùng nhiều ‘cây gậy’ hơn là ‘củ cà rốt.’
Ngược lại, dù hai nước là kẻ thù truyền kiếp, nhưng Việt Nam lại trung thành với Trung Quốc hơn Philippines. Chẳng hạn, đầu tháng này, Chủ tịch nước Lương Cường đã tham dự lễ kỷ niệm Ngày Chiến thắng tại Bắc Kinh, đánh dấu 80 năm ngày Nhật Bản thất bại trong Thế chiến II. Việt Nam cũng nhận lời mời làm khách của Trung Quốc đến tham dự Hội nghị thượng đỉnh Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), được tổ chức vài ngày trước đó, và hiện cũng là một quốc gia đối tác trong BRICS. Cả hai tổ chức này đều bị cho là chống phương Tây, thậm chí chống Mỹ, và Trung Quốc là một thành viên cốt cán của cả hai.
Hơn nữa, Việt Nam cũng tìm đến Trung Quốc khi cần. Ví dụ, sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump trở lại Nhà Trắng và tuyên bố áp thuế quan trả đũa lên nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã được chào đón tại Hà Nội, nơi hai nước ký kết hàng chục thỏa thuận, bao gồm cả về kinh tế và thương mại. Trong một bài xã luận xuất bản trước chuyến thăm, ông Tập viết rằng “Không có bên nào chiến thắng trong chiến tranh thương mại và chiến tranh thuế quan,” khiến chủ nhà của ông rất vui mừng.
Dù Việt Nam từng chào đón Tổng thống Joe Biden tới Hà Nội vào năm 2023 để nâng tầm quan hệ song phương lên mức cao nhất là “quan hệ đối tác chiến lược toàn diện,” ngang hàng với Trung Quốc và các nước thân cận khác của Việt Nam, Bắc Kinh lại không tỏ ra lo ngại, bởi họ hiểu đúng rằng chính sách đa phương của Hà Nội không nhất thiết nhằm mục đích chống lại Trung Quốc.
Một lý do khác khiến Manila phải gánh chịu sự phẫn nộ của Bắc Kinh là vì Philippines đã tích cực hơn nhiều trong việc tranh thủ sự ủng hộ từ các quốc gia khác trong nỗ lực chống lại Trung Quốc. Vài ngày sau chuyến thăm Nhà Trắng hồi tháng 7, Marcos đã gặp Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi, và hai nhà lãnh đạo đã cam kết nâng cao quan hệ đối tác chiến lược bằng cách tăng cường quan hệ thương mại, quốc phòng, và an ninh hàng hải – trong đó khía cạnh quốc phòng và an ninh được hiểu là hợp tác để chống lại Trung Quốc.
Cùng lúc với chuyến thăm New Delhi của Marcos, Ấn Độ và Philippines còn tiến hành cuộc tập trận quân sự chung đầu tiên trên Biển Đông, một tín hiệu răn đe rõ ràng khác đối với Bắc Kinh. Trong vài năm qua, Philippines đã tăng cường đáng kể các cuộc tập trận quân sự hợp tác; ký kết các thỏa thuận quốc phòng mới; hoặc làm cả hai việc này, không chỉ với Mỹ mà còn với Australia, Ấn Độ, Nhật Bản, New Zealand, và Hàn Quốc. Cuối tháng trước, Manila thậm chí còn chào đón Ngoại trưởng Đài Loan Lâm Giai Long, người đi cùng một phái đoàn doanh nghiệp để thảo luận về các vấn đề thương mại và đầu tư. Đáng chú ý là ông có thể đang đi công tác với tư cách cá nhân và không tổ chức bất kỳ cuộc họp chính thức nào của chính phủ – một sự sắp xếp kỳ lạ nhưng vẫn khiến Bắc Kinh nổi giận.
Trong khi đó, cách tiếp cận của Việt Nam tinh tế hơn nhiều. Trong tám năm đầu tiên Hà Nội sử dụng cụm từ “đối tác chiến lược toàn diện” để mô tả các quan hệ quốc tế quan trọng nhất của mình, Việt Nam chỉ thiết lập ba quan hệ thuộc loại đó: với Trung Quốc, Nga, và Ấn Độ. Tuy nhiên, trong chín năm qua, Hà Nội từ từ mở rộng cánh cửa quan hệ, thiết lập thêm chín quan hệ đối tác chiến lược toàn diện mới – một vài trong số đó là với các quốc gia gây tranh cãi theo quan điểm của Bắc Kinh, như Mỹ và Nhật Bản.
Hà Nội luôn rõ ràng về nguyên tắc “bốn không” trong chính sách quốc phòng: không tham gia các liên minh an ninh, không liên kết với nước này chống nước kia, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự trong lãnh thổ Việt Nam, và không tiến hành chiến tranh phủ đầu. Đồng thời, các quan hệ đối tác chiến lược toàn diện của Việt Nam tập trung vào một loạt các vấn đề khác ngoài quốc phòng. Nói cách khác, Hà Nội có thể đưa thêm hợp tác quốc phòng vào các quan hệ này dưới vỏ bọc hòa bình của các hoạt động hợp tác rộng rãi hơn.
Cuối cùng, một phần sự thất vọng của Trung Quốc có lẽ bắt nguồn từ tính thất thường của nền dân chủ Philippines. Ví dụ, khi Rodrigo Duterte nắm quyền từ năm 2016 đến năm 2022, quan hệ song phương suôn sẻ hơn nhiều; trên thực tế, thậm chí còn có một “thỏa thuận không nuốt lời” về cách xử lý các xung đột ở Biển Đông. Chính sách đối ngoại tổng thể của Duterte là ít phụ thuộc vào Washington, hợp tác nhiều hơn với Bắc Kinh, và chủ động tìm kiếm các lĩnh vực hợp tác, chẳng hạn như thăm dò chung dầu khí ở Biển Đông, đồng thời tận dụng Sáng kiến Vành đai và Con đường của Trung Quốc cho chương trình “Xây dựng, Xây dựng, Xây dựng” của Duterte nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống ở Philippines. Tuy nhiên, không một chính sách nào của ông thành công, và cuối cùng, người kế nhiệm ông – Marcos – đã đảo ngược chúng.
Tất nhiên, điểm khác biệt chính là Việt Nam cũng là một quốc gia chuyên chế, do một đảng lãnh đạo, mà thật tình cờ lại là Đảng Cộng sản. Dù chính trị luôn có những bất ổn và khó lường, ngay cả trong chế độ độc đảng, nhưng yếu tố này ít quan trọng hơn nhiều so với trong một nền dân chủ. Kết quả là, Bắc Kinh trở nên quen thuộc và thoải mái không chỉ với các nhà lãnh đạo hiện tại, mà có thể cả các nhà lãnh đạo tương lai của Việt Nam. Và việc tất cả họ đều là đảng viên Đảng Cộng sản càng củng cố quan hệ hợp tác giữa họ trên cơ sở ý thức hệ.
Thật vậy, trong lúc Bắc Kinh tổ chức lễ kỷ niệm Ngày Chiến thắng, Việt Nam cũng tổ chức lễ diễu binh công khai để kỷ niệm điều mà cả hai nước đều viết lại là chiến thắng của chủ nghĩa cộng sản trước chủ nghĩa phát xít đế quốc, câu chuyện chung giữa các đảng cộng sản trên toàn thế giới. Sự đồng thuận về quản trị và thế giới quan này đã hỗ trợ cho sự phát triển hiệu quả của quan hệ Trung-Việt bất chấp tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.
Điều quan trọng cần lưu ý là dù Bắc Kinh thực sự đối xử khác biệt với Philippines và Việt Nam trong khu vực, nhưng cả hai quốc gia đều chưa tìm ra cách hiệu quả để buộc Bắc Kinh phải ngừng hoàn toàn các yêu sách của mình. Trong vài năm qua, Manila đã thực hiện cái được gọi là “minh bạch quyết đoán” – một chiến thuật sử dụng các video ghi hình và ảnh chụp để vạch trần hành vi xấu của Trung Quốc trong khu vực.
Ngược lại, trong cái mà người ta có thể gọi là “sáng kiến mơ hồ,” Việt Nam rõ ràng đã đạt được một thỏa thuận ngầm với Trung Quốc để không công khai bất kỳ cuộc đụng độ nào trong khu vực, đồng thời xử lý các bất đồng và căng thẳng một cách kín đáo nhằm tránh leo thang không cần thiết. Cả hai chiến lược đều đã thất bại.
Nhưng chí ít thì Việt Nam có thể tuyên bố ít gây căng thẳng hơn với Trung Quốc nhờ cách tiếp cận kín đáo của mình – và đây là một thành tựu đáng giá. Trong khi đó, Philippines và Mỹ nên hiểu rằng dù liên minh an ninh của họ có thể ngăn chặn một cuộc chiến toàn diện, nhưng nó không thể ngăn cản Trung Quốc tiếp tục tiến hành các chiến dịch vùng xám và các hành động nguy hiểm khác ở Biển Đông.
Sau cùng, Manila và Washington nên cân nhắc xem hành động nào của Trung Quốc có thể kích hoạt quan hệ liên minh và cách thức tiến hành các hoạt động liên minh hiệu quả hơn. Manila có thể cố gắng hành xử giống Hà Nội, nhưng đó sẽ là điều không thể chấp nhận với người dân Philippines, vì từ bỏ sự phản kháng trước Trung Quốc chẳng khác nào đầu hàng. Có lẽ sự dung hòa giữa hai cách tiếp cận sẽ mang lại hiệu quả cao hơn.
Derek Grossman là giáo sư khoa học chính trị và quan hệ quốc tế tại Đại học Nam California, nhà sáng lập và nhà phân tích chính của công ty tư vấn Indo-Pacific Solutions. Ông từng làm việc tại Rand Corp và là cựu cố vấn tình báo của Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ về các vấn đề an ninh Châu Á và Thái Bình Dương.