Ảo mộng về một Trung Đông mới

Nguồn: Marc Lynch, “The Fantasy of a New Middle East”, Foreign Affairs, 31/10/2025

Biên dịch: Viên Đăng Huy

Trật tự khu vực Trung Đông đang phát triển nhanh chóng, nhưng không theo cách mà nhiều quan chức Israel và Mỹ giả định. Nỗ lực của Tổng thống Mỹ Donald Trump nhằm chấm dứt cuộc chiến ở Gaza đã mang lại kết quả là toàn bộ con tin Israel còn sống sót được trả tự do và tạo ra một khoảng bình yên giữa những cuộc tàn sát và hủy diệt không ngừng ám ảnh vùng đất này. Bước đột phá đó đã làm dấy lên hy vọng về một sự chuyển đổi khu vực rộng lớn hơn, ngay cả khi những gì xảy ra sau lệnh ngừng bắn ban đầu vẫn còn hết sức bất định. Chính Trump tuyên bố về một sự khởi đầu cho hòa bình tại Trung Đông. Nếu thỏa thuận của ông Trump ngăn chặn được việc trục xuất người Palestine khỏi Gaza và sáp nhập Bờ Tây, nhiều chính phủ Ả Rập có thể lại sẵn lòng xem xét bình thường hóa quan hệ với Israel. Thật vậy, người Israel coi việc các nhà lãnh đạo Ả Rập gây áp lực buộc Hamas chấp nhận thỏa thuận của Trump là bằng chứng cho thấy việc bình thường hóa quan hệ có thể được đưa trở lại bàn đàm phán.

Tuy nhiên, ngay cả khi thỏa thuận Gaza được duy trì, giai đoạn hợp tác chặt chẽ giữa Mỹ và Israel này chắc chắn sẽ sớm kết thúc. Niềm tin sai lầm rằng Israel đã đạt được ưu thế chiến lược vĩnh viễn so với các đối thủ hầu như chắc chắn sẽ khiến nước này thực hiện những hành động ngày càng khiêu khích thách thức trực tiếp các mục tiêu của Nhà Trắng. Các quốc gia vùng Vịnh mà Israel khao khát lôi kéo vào vòng ảnh hưởng của mình đều nghi ngờ rằng Israel thực sự sẵn lòng hoặc có khả năng bảo vệ lợi ích cốt lõi của họ. Giờ đây, những nước này ít lo lắng hơn đến việc đối đầu với Iran—và không còn tin rằng Tel Aviv là cầu nối duy nhất tới Washington. Dường như Israel đã không nhận ra mức độ gắn bó giữa ông Trump và các quốc gia vùng Vịnh.

Cả chính phủ và giới an ninh quốc gia Israel đều đang chìm đắm trong suy nghĩ viển vông bởi họ quá say sưa với những cơ hội mà việc thể hiện sức mạnh quân sự của đất nước tạo ra. Sau các cuộc tấn công của Hamas vào ngày 7 tháng 10 năm 2023, Israel đã tiến hành một loạt các cuộc không kích và can thiệp liên tiếp trên khắp khu vực nhằm vào không chỉ Hamas mà còn toàn bộ trục kháng chiến do Iran lãnh đạo, liên tục vượt qua các lằn ranh đỏ vốn đã chi phối cuộc chiến tranh ngầm trong khu vực, hạ sát những nhà lãnh đạo từng được coi là bất khả xâm phạm, bao gồm: Thủ lĩnh Hezbollah Hassan Nasrallah bằng quả bom cực mạnh ở trung tâm Beirut, lãnh đạo chính trị Hamas Ismail Haniyeh trong một ngôi nhà an toàn của Iran, nhiều chỉ huy quân sự Iran ở Syria, và thủ tướng phe Houthi của Yemen. Các cuộc oanh tạc của Israel vào các cơ sở hạt nhân và quân sự của Iran thể hiện đỉnh điểm của mong muốn đã ấp ủ từ lâu của Israel là tấn công vào trung tâm của kẻ thù lớn nhất của mình.

Tuy nhiên, một cuộc tấn công ở vùng Vịnh đã chứng tỏ là một bước ngoặt không ngờ. Việc Israel liều lĩnh ám sát các lãnh đạo Hamas đang tham gia đàm phán hòa bình tại Doha vào tháng 9 là một hành động leo thang nghiêm trọng nhằm thể hiện nỗ lực tái định hình Trung Đông bằng sức mạnh không quân. Đó là loại hành động liều lĩnh chỉ được thực hiện bởi các nhà lãnh đạo hoàn toàn tin tưởng họ sẽ không phải chịu bất kỳ trách nhiệm nào cho việc làm của mình. Nhưng Trump đã quyết định rằng lần này, Israel đã vượt quá giới hạn. Hình ảnh không thể xóa nhòa về một Trump cau có nhìn Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu lúng túng đọc lời xin lỗi được soạn sẵn qua điện thoại cho Tiểu vương Qatar cho thấy sự thay đổi địa chính trị đã mở đường cho lệnh ngừng bắn ban đầu ở Gaza.

Vẫn chưa rõ liệu sự bực bội của Trump đối với Israel có tạo ra những thay đổi có ý nghĩa nào ngoài lệnh ngừng bắn hay không. Viện dẫn lý do là Hamas thực hiện các cuộc tấn công ở phía nam Gaza, quân đội Israel đã tiếp tục ném bom vào một số khu vực của vùng lãnh thổ này trong tuần qua. Israel sẽ có lợi hơn nếu họ lùi một bước khỏi bờ vực và tận dụng cơ hội ngừng bắn này để giảm bớt các hành động quân sự liều lĩnh, đồng thời tìm kiếm một trật tự khu vực bền vững mà chỉ có thể đạt được thông qua những tiến triển nghiêm túc hướng tới thành lập một nhà nước Palestine. Xung đột kéo dài đã phơi bày những thiếu sót của Israel: hệ thống phòng thủ tên lửa của nước này không mang lại an ninh hoàn hảo, nền kinh tế của nước này không thể chịu đựng được cuộc chiến kéo dài, chính trị trong nước của nước này biến động sau thời gian dài xung đột ở Gaza, và quân đội của nước này vẫn phụ thuộc sâu sắc vào Mỹ. Việc tàn phá Gaza đã làm hủy hoại vị thế của Israel trên trường quốc tế, khiến quốc gia này ngày càng bị cô lập và đơn độc.

Israel không thể dùng bom đạn để tạo ra một trật tự mới ổn định ở Trung Đông. Để lãnh đạo khu vực, Israel không thể chỉ dựa vào ưu thế về quân sự. Nó cũng đòi hỏi một mức độ đồng thuận và hợp tác từ các cường quốc khu vực khác. Nhưng không ai ở Trung Đông muốn Israel lãnh đạo khu vực, và tất cả các quốc gia trong khu vực ngày càng sợ hãi sức mạnh không kiểm soát của nước này. Một số người ở Washington hoan nghênh viễn cảnh Israel không bị kiểm soát tàn phá các đối thủ của Mỹ. Nhưng họ nên cẩn thận với ước muốn của mình. Bởi lẽ, lợi ích của Israel không hề đồng nhất với lợi ích của Mỹ—và Israel đang tạo ra quá nhiều gánh nặng mà Mỹ có thể không muốn hoặc không đủ khả năng gánh vác.

Trật tự xưa và nay

Nỗ lực của Israel nhằm tái định hình khu vực đã đi xa hơn những gì hầu hết mọi người tưởng tượng, nhưng nó lại đang đi ngược lại những xu hướng mạnh mẽ. Trật tự khu vực Trung Đông đã ổn định đáng kể trong 35 năm qua. Ẩn sâu bên dưới sự hỗn loạn, bạo lực và những biến động tưởng chừng không ngừng, cấu trúc cơ bản của nền chính trị khu vực chỉ trải qua vài khoảnh khắc có tiềm năng thay đổi—nhưng không có khoảnh khắc nào kéo dài. Cấu trúc đó bao gồm ưu thế của Mỹ trên trường quốc tế, vốn một ưu thế khó chịu, thiếu sự ủng hộ và không được chào đón, cùng với sự phân cực mạnh mẽ, dù không phải lúc nào cũng được thừa nhận, của khu vực thành hai phe đối lập.

Trật tự khu vực này đã ra đời cùng với ưu thế toàn cầu của Mỹ sau khi Liên Xô sụp đổ. Trong suốt Chiến tranh Lạnh, các quốc gia trong khu vực có thể xoay xở giữa hai siêu cường để kiếm lợi, trong khi Washington và Moscow lại quá lo lắng về nguy cơ mất đi các đồng minh và lực lượng ủy nhiệm quan trọng ở các nước đó. Sau năm 1991, mọi con đường đều chạy qua Washington. Câu hỏi quan trọng lúc đó là: các quốc gia sẽ đứng trong hay đứng ngoài trật tự này. Những nước đứng bên trong—gồm Israel và hầu hết các quốc gia Ả Rập—được hưởng đảm bảo an ninh, tiếp cận các tổ chức và nguồn tài chính quốc tế, cùng sự bảo vệ về mặt ngoại giao. Ngược lại, các nước đứng ngoài—như Iran, Iraq, Libya và Syria—phải chịu các lệnh trừng phạt nặng nề, các cuộc oanh tạc thường xuyên, can thiệp ngầm và sự bôi nhọ liên tục. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi Libya và Syria đã cố gắng suốt thập niên 1990 và đầu thập niên 2000 để xoa dịu Washington và quay về với trật tự khu vực do Mỹ thiết lập.

Ưu thế của Mỹ, vốn đã bị làm suy yếu bởi thảm họa xâm lược Iraq và khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, không còn có vẻ vững chắc như những thập kỷ trước nữa. Nhưng đa cực vẫn là một viễn cảnh xa vời. Nga chỉ có một đồng minh trong khu vực—chế độ đã suy yếu của Tổng thống Bashar al-Assad ở Syria. Giờ đây, sau khi Assad bị lật đổ năm 2024, Nga không còn đồng minh nào. Sự trỗi dậy kinh tế không ngừng của Trung Quốc và hàng loạt các thỏa thuận chiến lược đáng gờm với các cường quốc khu vực đã không đặt ra bất kỳ thách thức nghiêm trọng nào đối với trật tự khu vực do Mỹ lãnh đạo. Trung Quốc gần như không can thiệp vào xung đột Gaza và chỉ dừng lại ở việc lên án các vụ không kích của Israel và Mỹ vào Iran. Trung Quốc chỉ duy trì một căn cứ hải quân trong khu vực, một tiền đồn nhỏ ở Djibouti được sử dụng cho các nỗ lực chống cướp biển ở Vịnh Aden, nhưng nước này đã không phản ứng gì khi lực lượng Houthi phong tỏa vận chuyển trên Biển Đỏ để trả đũa chiến dịch của Israel ở Gaza. Hiện tại, Trung Quốc dường như bằng lòng với việc hưởng lợi miễn phí từ sự thống trị quân sự của Mỹ tại vùng Vịnh, bất chấp sự phụ thuộc của họ vào dầu khí Trung Đông. Mặc dù các quốc gia trong khu vực đang nỗ lực đa dạng hóa đối tác quân sự, kinh tế và tìm kiếm những thỏa thuận tốt hơn với Washington, vẫn chưa có thế lực nào thay thế được vị thế tối cao của Mỹ.

Kể từ năm 1991, tất cả các quốc gia Trung Đông đều đã yên vị trong trật tự khu vực hoạt động theo mô hình lưỡng cực, chia khu vực thành khối do Mỹ dẫn đầu (gồm Israel, hầu hết các nước Ả Rập và Thổ Nhĩ Kỳ) đối đầu với Iran và các đối tác khu vực của nước này. Các nhà lãnh đạo vùng Vịnh cảm thấy thoải mái với cách tiếp cận giao dịch của Trump và khao khát của ông đối với các loại thỏa thuận mà các quốc gia dầu mỏ giàu có có thể sẵn lòng đưa ra. Hiệp định Abraham, nơi một số quốc gia Ả Rập bình thường hóa quan hệ với Israel vào năm 2020 theo yêu cầu của Trump, thực chất chỉ thay đổi vẻ bề ngoài, do nhiều quốc gia Ả Rập này vốn dĩ đã duy trì quan hệ chiến lược với Israel để cùng chống lại Iran.

Trật tự do Mỹ dẫn đầu này đã chứng tỏ sự mạnh mẽ đáng kinh ngạc. Sự sụp đổ của tiến trình hòa bình Israel-Palestine năm 2001 hay cuộc nổi dậy Intifada thứ hai tàn khốc đều không làm nó lung lay đáng kể. Tương tự, các sự kiện như cuộc tấn công khủng bố ngày 11/9, cuộc xâm lược Iraq thảm khốc, hay việc theo đuổi các chính sách cực kỳ không được lòng dân dưới danh nghĩa “cuộc chiến chống khủng bố” toàn cầu cũng vậy. Tuy nhiên, những thảm họa này đã củng cố vị thế của khối Iran. Khối này dường như đã không ngừng trỗi dậy trong nhiều thập kỷ, khi các đồng minh của họ chiếm được các vị trí chủ chốt ở Baghdad, Beirut và Sanaa; chế độ Assad bám trụ quyền lực ở Damascus; và Hamas cùng Hezbollah phát triển kho vũ khí tên lửa và năng lực quân sự đáng gờm.

Trong giai đoạn biến động lớn của các cuộc nổi dậy Ả Rập sau năm 2011, cấu trúc lưỡng cực ban đầu đã chuyển thành mô hình tam cực dễ nhận thấy. “Trục kháng chiến” của Iran về cơ bản vẫn được duy trì. Tuy nhiên, những cơ hội và thách thức từ các thay đổi chính trị trọng đại này đã thúc đẩy cuộc cạnh tranh khốc liệt và phá hoại trên nhiều mặt trận khu vực, dẫn đến việc khối liên minh do Mỹ lãnh đạo bị chia cắt làm đôi: một bên là Qatar và Thổ Nhĩ Kỳ, bên kia là Ả Rập Xê Út và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE). Washington đã phải chật vật để giữ họ cùng hướng đến một mục tiêu chung. Việc Ả Rập Xê Út-UAE phong tỏa Qatar từ 2017 đến 2021 đã cản trở nghiêm trọng nỗ lực duy trì một mặt trận thống nhất chống Iran. Nhưng mâu thuẫn này đã được hóa giải nhanh chóng dưới thời Tổng thống Joe Biden khi các bên lớn hòa giải và khôi phục trật tự cũ, dù nỗ lực không ngừng của chính quyền Biden nhằm thúc đẩy một thỏa thuận bình thường hóa quan hệ Israel-Saudi đã không thành công.

Tuy nhiên, sau cuộc chiến ở Gaza, các chế độ Ả Rập phải nhìn nhận lại lợi ích của họ trong vấn đề Palestine. Luôn cảnh giác với nguy cơ bùng phát các làn sóng biểu tình và nổi dậy quần chúng mới, các nhà lãnh đạo khu vực hiểu rõ mức độ giận dữ của dân chúng trước tình trạng tàn phá và thanh lọc sắc tộc ở Gaza. Việc Ả Rập Saudi tái khởi động Sáng kiến Hòa bình Ả Rập—yêu cầu Israel phải chấp nhận nhà nước Palestine để đổi lấy hòa bình—chứng tỏ sự thay đổi lớn về quan điểm. Sự thay đổi này thể hiện rõ nhất qua các điều khoản ngừng bắn Gaza, trong đó bác bỏ việc trục xuất người Palestine và việc Israel sáp nhập vùng đất, điều kiện mà các nước Vùng Vịnh ưu tiên hơn Israel.

Khoảnh khắc Israel đã ngó lơ

Tuy nhiên, sự thay đổi này đã bị các nhà lãnh đạo Israel bỏ qua. Thay vào đó, họ tập trung vào cách chiến dịch của Israel chống lại Iran và các đồng minh của Iran đã lật đổ cán cân quyền lực trong khu vực. Việc tiêu diệt đầu não lãnh đạo của Hezbollah và phá hủy phần lớn kho tên lửa của họ đã loại bỏ một trong những khí tài quân sự quan trọng của Iran. Sự sụp đổ của chế độ Assad đã tước đi con đường dễ dàng của Tehran khiến Iran mất đi tuyến đường tiếp tế dễ dàng cho đồng minh Lebanon, trong khi Israel đã tận dụng cơ hội này để hủy diệt có hệ thống kho vũ khí của Syria, tấn công các mục tiêu Iran và thực tế nắm quyền kiểm soát một phần lớn phía nam Syria.

Các nhà hoạch định và quan chức an ninh quốc gia Israel tin rằng mỗi lần leo thang chỉ chứng tỏ rằng những lo ngại của giới phê bình bị thổi phồng. Họ cho rằng sai lầm của họ trước ngày 7 tháng 10 là đã không thẳng tay dập tắt các mối đe dọa, bất kể cái giá phải trả. Canh bạc của họ là có thể áp đặt trật tự bằng vũ lực và bằng sức mạnh không quân, và các nhà lãnh đạo Ả Rập hoặc quá sợ hãi hoặc quá yếu đến mức không dám đáp trả. Israel tin rằng các chuẩn tắc là không quan trọng, vì quyền lực và tính chính danh đi đôi với nhau. Các nhà lãnh đạo Ả Rập có thể cằn nhằn nhưng cuối cùng sẽ phải tuân theo lằn ranh do bá quyền khu vực đang lên này đặt ra. Israel, với tư tưởng hoàn toàn dựa trên chủ nghĩa hiện thực, muốn một khu vực mà ở đó sức mạnh tạo nên lẽ phải, nơi không quốc gia tư lợi nào hy sinh lợi ích của mình vì người Palestine, nơi luật pháp quốc tế không có giá trị ràng buộc, và nơi quyền lực quân sự thống trị tuyệt đối.

Tuy nhiên, ưu thế quân sự của Israel và sự đồng tình miễn cưỡng của các nước Ả Rập sẽ không thể tạo ra một trật tự bền vững. Để củng cố vai trò lãnh đạo khu vực, Israel cần phải khiến các quốc gia Ả Rập có cùng chung mục đích hoặc cùng chung kẻ thù với mình, nhưng Israel đã phá hoại cả hai điều đó. Việc tàn phá Gaza và ý định sáp nhập Bờ Tây đã xóa bỏ mọi ảo tưởng về việc Israel cho phép một giải pháp công bằng hướng tới nhà nước Palestine. Ngay cả trước khi các cuộc tấn công của Israel làm suy yếu sức mạnh quân sự khu vực của Iran, Ả Rập Xê Út và các quốc gia vùng Vịnh đã xích lại gần nước này. Sau vụ tấn công ở Doha (và trước đó là các mối đe dọa trục xuất hàng triệu người Palestine sang Ai Cập và Jordan), Israel hiện nay trở thành mối đe dọa đối với các chế độ Ả Rập, tương đương với một Iran đã bị suy yếu. Các nước Ả Rập sẽ không còn lý do để chấp nhận liên minh không được lòng dân với Israel nếu mối đe dọa từ Iran không còn là nỗi lo thường trực của họ.

Quyền lực không bị kiểm soát và tham vọng không đáy sẽ dẫn đến bi kịch. Israel đã thể hiện rõ sự không sẵn lòng thực hiện bất kỳ bước đi có ý nghĩa nào để xây dựng mục đích chung—điều có thể giúp biến thành công quân sự của họ thành vai trò lãnh đạo khu vực. Người Israel vẫn còn bị ám ảnh bởi tổn thương từ cuộc tấn công ngày 7 tháng 10. Đại đa số công chúng Israel bác bỏ sự lên án quốc tế về tội ác chiến tranh ở Gaza, và hầu hết chỉ đơn giản là từ chối tin các báo cáo về nạn đói hoặc thương vong dân sự hàng loạt. Hơn nữa, Netanyahu lại quan tâm nhiều hơn đến việc duy trì chính phủ cực hữu thiểu số của mình, thay vì giải quyết sự chỉ trích quốc tế và hồi sinh các kế hoạch thành lập nhà nước Palestine mà các đối tác liên minh của ông không chấp nhận. Lệnh ngừng bắn ở Gaza đã mang lại cơ hội để thay đổi hướng đi, nhưng các cuộc giao tranh vẫn tiếp diễn, việc cản trở viện trợ nhân đạo, và bạo lực ngày càng gia tăng của người định cư ở Bờ Tây cho thấy điềm xấu.

Vấn đề càng tồi tệ hơn khi Israel còn đánh giá quá cao sức mạnh quân sự của mình. Mặc dù thực hiện những cuộc tấn công bất ngờ táo bạo và ưu thế không quân rõ ràng, quân đội Israel lại không đủ khả năng chiếm đóng và giữ lãnh thổ ngoài những vùng đất Palestine và Syria họ đã giành được 55 năm trước. Israel đã chứng minh họ có thể đạt được nhiều mục tiêu chiến thuật thông qua ám sát và ném bom từ xa. Tuy nhiên, họ chưa thể hoàn thành bất kỳ mục tiêu chiến lược nào: Hamas vẫn là thế lực mạnh nhất ở Gaza, Hezbollah từ chối giải giáp dù chịu tổn thất nặng nề, và chiến dịch lớn kéo dài 12 ngày chống Iran đã thất bại trong việc chấm dứt chương trình hạt nhân của nước này hay kích động người dân lật đổ chính quyền.

Sự thống trị quân sự của Israel là có thật, nhưng nó chỉ mang tính tạm thời. Israel chỉ có thể duy trì cuộc chiến ở Gaza nhờ nguồn cung cấp đạn dược liên tục từ Mỹ. Hệ thống phòng thủ Vòm Sắt của nước này đã cạn kiệt tên lửa đánh chặn đến mức nguy hiểm trong cuộc chiến 12 ngày chống lại tên lửa Iran, trước khi Mỹ can thiệp áp đặt ngừng bắn. Những lời kêu gọi khẩn khoản của Israel tới Washington trong suốt hai năm qua cho thấy quốc gia này phụ thuộc sâu sắc vào Mỹ như thế nào. Các cường quốc khu vực chắc chắn đã nhận thấy điểm yếu tiềm tàng này trong trường hợp xảy ra xung đột kéo dài.

Netanyahu đã chơi trò chơi chính trị Mỹ trong nhiều thập kỷ và có lý do chính đáng để giả định rằng sự kiểm soát của Israel đối với chính sách của Mỹ sẽ kéo dài vô thời hạn bất chấp sự hỗn loạn hiện tại. Nhưng đã đến lúc phải cảnh giác. Việc Netanyahu công khai ủng hộ Đảng Cộng hòa cùng với hành vi của Israel ở Gaza đã làm xói mòn nghiêm trọng sự đồng thuận lưỡng đảng từng ủng hộ Israel. Đa số Đảng viên Dân chủ hiện nay đồng cảm với người Palestine hơn người Israel, và các chính trị gia Dân chủ ngày càng nghi ngờ về viện trợ quân sự cho Israel. Đảng Cộng hòa vẫn ủng hộ, nhưng những người theo chủ nghĩa dân tộc trong phe “Nước Mỹ trên hết” dường như không sẵn lòng đặt lợi ích của Mỹ dưới lợi ích của Israel. Bản thân Trump thì đã lớn tuổi, thất thường, khó đoán, và có quan hệ cá nhân và tài chính sâu sắc với các chế độ vùng Vịnh; những người kế vị tiềm năng của ông, như Phó Tổng thống JD Vance, không có cam kết cụ thể với Israel. Không có cam kết từ Mỹ, vị thế hàng đầu của Israel có thể tan biến nhanh hơn nhiều so với dự kiến.

Israel có thể tự coi mình là bá quyền mới của khu vực, nhưng họ đã khiến bản thân mất đi giá trị và sự hữu ích. Sau cuộc tấn công vào Qatar, các nhà lãnh đạo các quốc gia vùng Vịnh khó có thể tiếp tục hướng tất cả các hệ thống phòng không của họ về phía Iran và Yemen. Có lẽ họ có thể chấp nhận việc Israel xóa sổ Gaza, nhưng giờ đây Israel đã tự biến mình thành mối đe dọa đối với an ninh của chính họ. Việc Israel không phải trả bất kỳ cái giá nghiêm trọng nào cho đến nay cho việc mở rộng quân sự trong khu vực và cho sự tàn phá Gaza đã dung dưỡng niềm tin ở Israel rằng họ sẽ không bao giờ phải trả giá. Nhưng điều đó sai lầm như niềm tin của Israel vào năm 1973 rằng không một quốc gia Ả Rập nào dám tấn công nước này nữa sau chiến thắng vang dội sáu năm trước đó, hay niềm tin rằng trước ngày 7 tháng 10 năm 2023, Hamas sẽ luôn bị kiềm chế ở Gaza.

Marc Lynch là giáo sư Khoa học Chính trị và Quan hệ Quốc tế tại Đại học George Washington và là tác giả cuốn “America’s Middle East: The Ruination of a Region”.