Ngành công nghiệp lừa đảo của Campuchia đã quá lớn để sụp đổ?

Nguồn: Jack Adamović Davies, “Is Cambodia’s Scam Industry Too Big to Fail?”, Foreign Policy, 01/12/2025

Biên dịch: Viên Đăng Huy

Việc cố vấn riêng bị Bộ Tư pháp Mỹ truy tố vì tổ chức mạng lưới lừa đảo lớn nhất lịch sử sẽ là một đòn chí mạng cho sự nghiệp chính trị của hầu hết các Thủ tướng. Nhưng điều đó lại không hề ảnh hưởng đến Thủ tướng Campuchia Hun Manet. Dưới sự bảo hộ của chính phủ ông – và trước đó là của cha ông, Hun Sen – một mạng lưới hơn 250 trung tâm lừa đảo đã bén rễ và hoạt động khắp Campuchia.

Theo ước tính của Liên Hợp Quốc, các hoạt động lừa đảo quy mô công nghiệp này sử dụng hơn 100.000 lao động từ nạn buôn người và lao động cưỡng bức, thu về hàng tỷ USD mỗi năm. Phần lớn số tiền bẩn này được đổ vào hệ thống chính trị gia đình trị đã bén rễ ở Campuchia, giúp duy trì chế độ cha truyền con nối lên nắm quyền nhờ đảo chính năm 1997 và không ngần ngại sử dụng các chiến thuật mạnh tay, đàn áp để duy trì cái mà Tổ chức Human Rights Watch gọi là “nhà nước độc đảng”.

Ông trùm lừa đảo điển hình cho mối quan hệ này hơn bất cứ ai khác chính là Trần Chí.

Tuy nhiên, vào ngày 14 tháng 10, Trần đã mất đi hào quang của mình. Trong một nỗ lực phối hợp, chính phủ Anh và Mỹ đã công bố một loạt các lệnh trừng phạt nhằm vào Tập đoàn Prince của Trần. Trong suốt thập kỷ qua, Trần bị cáo buộc đã xây dựng hình ảnh công ty trị giá hàng tỷ USD của mình như một tập đoàn hợp pháp, có ý thức xã hội—đồng thời quyên góp hàng triệu USD mỗi năm cho chính phủ Campuchia. Tập đoàn Prince đã đưa ra tuyên bố vào ngày 11 tháng 11, phủ nhận mọi hành vi sai trái của họ hoặc của cá nhân ông Trần.

Sinh ra tại Trung Quốc khoảng 37 năm trước, Trần đã đạt đến những đỉnh cao mà hầu hết người Campuchia chỉ có thể mơ ước. Ông đã thành lập một công ty mà theo bản cáo trạng, quản lý các khu phức hợp lừa đảo cùng với Bộ trưởng Nội vụ và mua đất cho một khu phức hợp khác từ con gái của một tướng quân đội cấp cao. Trong lĩnh vực chính trị, vai trò cố vấn cho Thủ tướng đương nhiệm và cựu Thủ tướng đã mang lại cho Trần một cấp bậc trong chính phủ tương đương với một bộ trưởng– ông ta thậm chí còn tháp tùng cựu Thủ tướng Hun Sen trong một chuyến thăm chính thức tới Cuba.

Bộ Tài chính Mỹ tuyên bố Tập đoàn Prince chỉ là bình phong cho “một danh sách dài các tội phạm xuyên quốc gia”, bao gồm việc điều hành “các hoạt động gian lận mạng quy mô công nghiệp” vốn “phụ thuộc vào nạn buôn người và chế độ nô lệ thời hiện đại” để tuyển nhân sự.

Các cáo buộc này không chỉ trùng khớp với những bài phóng sự của tôi về Tập đoàn Prince trong những năm gần đây, mà còn trùng với phạm vi của cái gọi là “đại dịch” lừa đảo và lao động cưỡng bức trong khu vực.

Các nhóm tội phạm có tổ chức đã bén rễ khắp khu vực, từ Myanmar bị chiến tranh tàn phá đến Philippines, thường xuyên thực hiện hình thức lừa đảo lòng tin đặc biệt tàn độc mang tên ‘mổ heo’ (pig butchering). Bề ngoài, chúng hoạt động trong các khu phức hợp trông như các khu văn phòng kinh doanh bình thường, nhưng chỉ cần quan sát kỹ hơn sẽ thấy rõ song sắt cửa sổ và lính canh dày đặc, thứ được dựng lên để ngăn chặn những người lao động bị buôn bán tìm đường trốn thoát

Cùng lúc Bộ Tài chính Mỹ công bố lệnh trừng phạt, các công tố viên liên bang ở New York đã công bố bản cáo trạng dài 26 trang, buộc tội Trần là ‘ông trùm’ của nhóm với cáo buộc giám sát mọi hoạt động từ rửa tiền, hối lộ quan chức chính phủ, cho đến cưỡng bức mại dâm và tra tấn. Hồ sơ tòa án riêng biệt cũng tiết lộ đã có tới 15 tỷ tiền điện tử bị tịch thu từ Trần, số tiền này được xác định là thu nhập từ phạm tội.

Trần có thể đang gặp khó khăn, nhưng còn lâu người ta mới có thể chắc chắn rằng ông ta đã bị hạ gục. Khi bạn đọc những dòng này, các nhà phân tích đang theo dõi hàng tỷ USD tiền điện tử được luân chuyển giữa các ví trực tuyến liên kết với lãnh đạo Tập đoàn Prince, trớ trêu thay nằm ngoài tầm với của các cơ quan thực thi pháp luật phương Tây. Các lệnh trừng phạt của Mỹ mang lại sức ảnh hưởng vượt xa giá trị pháp lý của chúng, bởi trên giấy tờ, chúng chỉ giới hạn ở các giao dịch với người Mỹ hoặc giao dịch thông qua các ngân hàng Mỹ.

Mặc dù vậy, vẫn có rất nhiều nơi sẵn sàng xử lý tiền của một mục tiêu bị trừng phạt – từ những kẻ rửa tiền bị cáo buộc là mạch máu của Tập đoàn Prince, cho đến Hồng Kông, nơi luôn khẳng định các lệnh trừng phạt đơn phương của Mỹ không có hiệu lực pháp lý. Trần chắc chắn có đủ nguồn lực để tiếp tục hoạt động, dù có thể với quy mô thu hẹp hơn. Câu hỏi mấu chốt là những người bảo trợ ông ta trong chính phủ Campuchia sẽ còn coi ông ta là nguồn lợi thay vì gánh nặng trong bao lâu nữa.

Với cáo buộc là tội phạm giàu có nhất thế giới—chỉ riêng 15 tỷ USD mà Bộ Tư pháp Hoa Kỳ tịch thu đã vượt qua cả 12,6 tỷ USD mà Hoa Kỳ yêu cầu từ trùm ma túy Mexico El Chapo—số phận của Trần đang phơi bày một vấn đề nan giải lớn hơn mà các nhà lãnh đạo Phnom Penh phải đối mặt.

Tính chính danh của Campuchia với tư cách là một quốc gia đã bị suy giảm nghiêm trọng, kể từ khi nước này giải thể đảng đối lập quan trọng duy nhất và bỏ tù các lãnh đạo của họ vào năm 2017. Quá trình củng cố quyền lực tiếp tục diễn ra sáu năm sau đó với việc chuyển giao chức Thủ tướng từ cha sang con. Tính chính danh này sẽ sớm không còn hiệu lực nếu Campuchia tiếp tục bị xem là thiên đường của chế độ nô lệ hiện đại và tội phạm mạng. Tuy nhiên, một câu hỏi quan trọng không kém là liệu Đảng Nhân dân Campuchia cầm quyền có thể duy trì quyền lực mà không cần đến nguồn thu bất chính được cung cấp bởi các trùm tội phạm bị cáo buộc như Trần hay không.

Đây không phải là lần đầu tiên một người Campuchia có quan hệ chính trị bị cáo buộc điều hành hoạt động lừa đảo bị vạch trần. Đầu năm nay, trong bối cảnh xung đột biên giới với Thái Lan nóng lên, cảnh sát Bangkok đã đột kích dinh thự của Kok An, một Thượng nghị sĩ thuộc Đảng Nhân dân Campuchia, để điều tra mối liên hệ của ông ta với các khu lừa đảo ở Poipet, Campuchia. (Dù Kok An chưa lên tiếng, chính phủ Campuchia đã phủ nhận ông ta có liên quan đến bất kỳ hoạt động lừa đảo nào). Chính phủ Hàn Quốc cũng ngày càng lên tiếng gay gắt hơn về việc công dân của họ bị buôn bán đến – và đôi khi bị sát hại – trong các trại lừa đảo ở Campuchia. Thậm chí, vào tháng 9 năm 2024, Mỹ đã trừng phạt thêm một Thượng nghị sĩ khác là Ly Yong Phat vì cáo buộc liên quan đến ngành công nghiệp này. (Ly Yong Phat phủ nhận các cáo buộc).

Tuy nhiên, bản cáo trạng chống lại Trần còn tiến thêm một bước nữa. Các nhà chức trách Hoa Kỳ cho biết, Trần đã lưu giữ một sổ sách ghi chép các khoản hối lộ dành cho các quan chức chính phủ – một cuốn sổ mà F.B.I. hiện tuyên bố đang nắm giữ. Dù các công tố viên rõ ràng đã cẩn thận không làm bẽ mặt các nhà hoạch định chính sách Campuchia bằng cách nêu tên, họ cũng ngụ ý rất rõ ràng rằng họ có thể công bố thông tin này vào bất cứ lúc nào về sau.

Không cần phải điều tra nhiều cũng có thể đoán ra danh tính của ‘quan chức cấp cao chính phủ’ mà Trần bị cáo buộc đã hối lộ một chiếc đồng hồ đeo tay trị giá hàng triệu USD vào năm 2020 để đổi lấy hộ chiếu ngoại giao. Thông điệp từ các quan chức chính phủ Hoa Kỳ là rõ ràng: Đừng thử thách lòng khoan dung của họ.

Campuchia đang bị đẩy vào thế phải lựa chọn giữa hai con đường, và cả hai đều tiềm ẩn nguy hiểm. Một là tiếp tục như cũ, cho phép các khoản hối lộ tiếp tục luân chuyển, và chấp nhận lún sâu dần vào tình trạng bị cô lập như Bắc Triều Tiên. Suy nghĩ của họ có thể là: Thà làm một nhà độc tài của nhà nước mafia giàu có và bị căm ghét còn hơn là một người anh em họ nghèo khó và bị phế truất. Hai là giải tán các trung tâm lừa đảo. Điều này sẽ mang lại chiến thắng ngoại giao lớn, vì hầu như quốc gia nào trên thế giới cũng đang mất hàng tỷ USD mỗi năm vì các băng nhóm lừa đảo được Phnom Penh bảo hộ. Tuy nhiên, điều này đồng nghĩa với việc đóng cửa một ngành công nghiệp có doanh thu – ước tính thận trọng là 12,5 tỷ USD mỗi năm – sánh ngang với các ngành trụ cột của nền kinh tế hợp pháp như may mặc (9 tỷ USD), vốn đang chật vật phục hồi sau COVID-19. Câu hỏi thực sự là liệu hệ thống bảo trợ chính trị của Campuchia có thể sống sót nếu ngừng hoàn toàn nguồn thu từ lừa đảo hay không.

Trong suốt bốn thập kỷ gia đình nắm giữ quyền lực, Hun Sen đã tự định vị bản thân là người bảo đảm ổn định duy nhất của đất nước. Ông ta luôn không ngừng nhận công lao về mình cho việc kết thúc cuộc nội chiến Campuchia năm 1998, một thành tựu mà ông ta gán cho chính sách ‘đôi bên cùng có lợi’ của mình nhằm hợp nhất các thành viên Khmer Đỏ đã giải tán vào quân đội chính quy và bộ máy công chức.

Nhưng rất lâu trước khi các du kích quân ra khỏi rừng rậm, Hun Sen đã tích cực biến Campuchia thành một mô hình đa cấp trên toàn quốc, nơi nhiều người có thể được hưởng một phần miếng bánh của chế độ tham quyền cố vị. Khi công bố cuộc điều tra năm 2016 về tài sản của gia đình cầm quyền, tổ chức phi chính phủ Global Witness đã gọi đây là “một trong những sự trớ trêu tàn nhẫn nhất trong mô hình độc tài của Hun Sen” khi hệ thống này “đã kiểm soát chặt chẽ nền kinh tế Campuchia đến mức người dân Phnom Penh gần như không thể tránh khỏi việc làm giàu cho những kẻ áp bức họ nhiều lần mỗi ngày”. Tổ chức Minh bạch Quốc tế mô tả hệ thống bảo trợ của đất nước này hoạt động “theo cả chiều dọc và chiều ngang trên khắp các bộ ngành chính phủ”.

Trong suốt thời gian dài, tài nguyên thiên nhiên của Campuchia chính là nguồn nhiên liệu thúc đẩy cỗ máy tham nhũng này. Đáng chú ý nhất là các khu rừng của Campuchia đã bị thu hẹp một phần ba kể từ đầu thế kỷ 21, phần lớn là do thói quen của chính phủ chia nhỏ các khu rừng đó cho những người thân cận trung thành—ví dụ như Try Pheap, người bị trừng phạt vào năm 2019 vì cáo buộc khai thác gỗ bất hợp pháp. Thậm chí, một công ty khác của ông ta tiếp tục bị trừng phạt vào tháng 9 này vì cáo buộc liên quan đến lao động cưỡng bức và hoạt động lừa đảo. (Công ty khai thác gỗ của Try Pheap đã phủ nhận các cáo buộc khai thác gỗ trái phép).

Tương tự, mọi loại hình cơ sở hạ tầng cũng được phân phát cho những người trả giá cao nhất — có một ông trùm đã mua nhượng quyền cảng chỉ để vận chuyển cần sa qua đó. Quân đội Campuchia (một trong những quân đội lớn nhất thế giới tính theo tỉ lệ đầu người) cũng được xây dựng trên cơ sở trả tiền để được tham gia, với các chức vụ được đem đấu giá và các ông trùm kinh doanh “bảo trợ” cho toàn bộ đơn vị quân đội. Tóm lại, sự ổn định phần lớn được đảm bảo bằng cách trao cho tất cả những ai có vũ khí hoặc tiền bạc một phần lợi ích trong hiện trạng thối nát này.

Tuy nhiên, động lực này đã được thúc đẩy mạnh mẽ hơn bởi sự xuất hiện của ngành công nghiệp lừa đảo. Mặc dù cái giá xã hội phải trả cho một phần tư thế kỷ hòa bình vừa qua là rất cao, nhưng việc để những nhân vật quyền lực—thường có cả lực lượng vũ trang dưới quyền—không có được lợi ích gì có thể khơi mào sự cạnh tranh gây bất ổn giữa giới tinh hoa.

Nền kinh tế hợp pháp của Campuchia đã lung lay trong vài năm nay. Hơn nữa, xung đột với Thái Lan trong năm nay đã khiến gần một triệu lao động di cư thất nghiệp phải hồi hương. Đây sẽ là một thời điểm tồi tệ để ngành công nghiệp có khả năng lớn nhất quốc gia này phải ngừng hoạt động.

Campuchia cũng đang tỏ ra tuyệt vọng muốn có được sự chấp thuận của Hoa Kỳ, thể hiện qua việc chi tiêu mạnh tay cho một loạt nhà vận động hành lang ở Washington. Thậm chí, ngay cả Bắc Kinh – đồng minh mạnh mẽ và kiên định nhất của vương quốc này cho đến nay – cũng đang dần mất kiên nhẫn. Công dân Trung Quốc từ lâu đã chiếm tỷ lệ quá lớn trong số các nạn nhân lừa đảo, cũng như những người điều hành bị buôn bán và các ông chủ khu phức hợp.

Trên khắp khu vực, các chính phủ đều phát ngấy với thái độ trì hoãn của Phnom Penh khi họ yêu cầu giải thoát công dân của mình khỏi các trung tâm lừa đảo.

Nếu Campuchia thực sự muốn nâng cao danh tiếng quốc tế đã bị hủy hoại bằng cách đoạn tuyệt với các phương thức của “nhà nước lừa đảo”, họ có thể tìm thấy một bài học lịch sử hữu ích từ mô hình của một nhà nước ma túy.

Vào tháng 7 năm 2000, giữa lúc vật lộn với các đợt hạn hán liên tiếp, Taliban đã tuyên bố cấm nông dân Afghanistan trồng cây thuốc phiện. Lệnh cấm này có hiệu quả đáng kinh ngạc, với sản lượng thu hoạch giảm tới 94% theo khảo sát sau đó. Tuy nhiên, theo nhà sử học Alfred W McCoy, bất chấp lời khen ngợi từ Washington, Taliban đã tự sát về mặt kinh tế. Lệnh cấm này đã khiến thêm 15% dân số vốn đã nghèo khó trở nên nghèo hơn, và Liên Hợp Quốc nhận thấy rằng nó đã kích động giới tinh hoa địa phương “nổi dậy chống lại chế độ” khi liên minh do Mỹ dẫn đầu xâm lược vào năm tiếp theo.

Triều đại Hun là một gia đình của những chính trị gia bền bỉ, với thành tích đã được chứng minh là sẵn sàng làm mọi thứ cần thiết để giữ vững quyền lực. Hiện tại, ngành công nghiệp lừa đảo—mặc dù đáng ghê tởm về mặt đạo đức—vẫn dường như là canh bạc tốt nhất của họ.

Jack Adamović Davies làm một nhà báo chuyên về phóng sự điều tra.