Một số tài liệu tham khảo về tư duy đối ngoại Việt Nam

Print Friendly, PDF & Email

Lời giới thiệu: Để tìm hiểu chính sách đối ngoại của một quốc gia, việc phân tích các bài viết, tuyên bố, phát biểu, trả lời phỏng vấn… của các nhà hoạch định chính sách hàng đầu của quốc gia đó đóng một vai trò rất quan trọng. Để giúp độc giả nắm bắt rõ hơn tư duy đối ngoại của Việt Nam hiện nay, chúng tôi tổng hợp và chia sẻ lại một số bài viết như vậy của các lãnh đạo, nhà ngoại giao chủ chốt của Việt Nam hiện nay để bạn đọc tiện tham khảo.

Ngoại giao Việt Nam: 75 năm đồng hành cùng dân tộc

Đúng ngày này cách đây 75 năm, ngày 28-8-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh thành lập Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, sáng lập ra nền ngoại giao của nước Việt Nam hiện đại.

Trong suốt 75 năm trưởng thành và phát triển, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự dìu dắt trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên, ngoại giao Việt Nam luôn đồng hành cùng dân tộc, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, góp phần quan trọng vào những thắng lợi vẻ vang trong lịch sử hào hùng của dân tộc.

Tuổi Trẻ Online xin trích đăng bài viết của Phó thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh nhân kỷ niệm 75 năm ngày thành lập đất nước và cũng là ngày khởi đầu cho sứ mệnh của Bộ Ngoại giao Việt Nam.

“Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1945), dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Bác Hồ và các đồng chí lãnh đạo Đảng tiền bối, ngoại giao đã giữ vai trò tiên phong trong việc giữ vững độc lập nước nhà và bảo vệ thành công chính quyền cách mạng còn non trẻ. Những sách lược, quyết sách táo bạo, khôn khéo của ngoại giao như “hòa để tiến”, “phân hóa kẻ thù”, cùng các nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu”…, đã giúp cách mạng nước ta vượt qua được những tình huống hiểm nghèo “ngàn cân treo sợi tóc”. Đồng thời ngoại giao đã đi đầu trong việc vận động các nước công nhận nền hòa bình và độc lập của Việt Nam.

Ngoại giao trong giải phóng dân tộc

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nền ngoại giao cách mạng Việt Nam đã trở thành “một mặt trận quan trọng, có ý nghĩa chiến lược”, bộ phận cấu thành quan trọng trong đường lối cách mạng, sát cánh cùng mặt trận quân sự để đưa kháng chiến đi đến thắng lợi.

Ngoại giao đã đi tiên phong trong việc tạo ra một mặt trận quốc tế, ủng hộ sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Ngoại giao đã giương cao ngọn cờ hòa bình, độc lập dân tộc, kiên trì kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh pháp lý, tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, mở rộng quan hệ với các nước dân tộc chủ nghĩa, hình thành mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân ta.

Nhờ đó và cùng với thắng lợi trên chiến trường, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã buộc phải ngồi vào bàn đàm phán để chấm dứt chiến tranh. Chiến thắng của ngoại giao trên bàn đàm phán ở Geneva năm 1954 và ở Paris năm 1973 là những dấu mốc quan trọng trên chặng được giành lại độc lập dân tộc và thống nhất đất nước.

Trong công cuộc tái thiết và xây dựng đất nước sau khi chiến tranh kết thúc, ngoại giao là lực lượng nòng cốt, tiên phong trong đấu tranh đưa đất nước ta thoát khỏi thế bị cô lập về chính trị, bao vây cấm vận về kinh tế. Đồng thời, ngoại giao đã tích cực tham gia giải quyết các vấn đề tồn tại giữa Việt Nam với các nước láng giềng, nước lớn, tạo ra những đột phá trong quan hệ đối ngoại của nước ta, trong đó có giải pháp cho vấn đề Campuchia và bình thường hóa quan hệ với các nước láng giềng, nước lớn.

Những chặng đường vẻ vang của ngoại giao cách mạng Việt Nam được Bác Hồ và các nhà lãnh đạo tiền bối của Đảng dẫn dắt, đã góp phần định hình bản sắc, phong thái, phương pháp của ngoại giao Việt Nam. Từ nguyên tắc “dĩ bất biến ứng vạn biến”, “độc lập, tự chủ”, “đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu” đến phương châm “thêm bạn, bớt thù” và phương pháp ngoại giao tâm công, tranh thủ thời cơ, kiến tạo thời cơ, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tất cả đã trở thành những bài học kinh điển, vô giá về ngoại giao cách mạng mang đậm phong cách Hồ Chí Minh, đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

Trong thời kỳ Đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, nhiệm vụ đối ngoại đặt ra là tiếp tục tạo môi trường và điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Trên cơ sở kế thừa nền tảng và kinh nghiệm đối ngoại của thời kỳ trước, ngoại giao đã đi đầu, đóng vai trò tiên phong, mở đường, phát triển và đưa quan hệ hợp tác của Việt Nam với các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới đi vào chiều sâu, mở rộng các thị trường, các lĩnh vực hợp tác mới, thu hút các nguồn lực cho phát triển kinh tế – xã hội, góp phần duy trì môi trường hòa bình, ổn định, giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và nâng cao vị thế quốc tế của đất nước.

Ngoại giao trong hội nhập quốc tế

Ngoại giao đã góp phần quan trọng trong việc mở rộng và đưa vào chiều sâu quan hệ đối ngoại của ta với các nước. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc; thiết lập được khuôn khổ quan hệ ổn định, lâu dài với 30 đối tác chiến lược, toàn diện, tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam cùng các nước nâng tầm hợp tác vì lợi ích của mỗi nước và vì hòa bình, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.

Ngoại giao đã nỗ lực triển khai định hướng chiến lược tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Theo đó, ngành ngoại giao đã tham mưu cho Đảng và Chính phủ các biện pháp, bước đi chiến lược để Việt Nam đã trở thành mắt xích quan trọng trong nhiều liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu với việc ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) quan trọng (như CPTPP, EVFTA…), qua đó tạo ra những động lực to lớn cho phát triển. Bên cạnh đó, ngành ngoại giao đã tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan trong thúc đẩy hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực an ninh – quốc phòng, xã hội, văn hóa, khoa học – công nghệ…

Ngoại giao đa phương đã trưởng thành mạnh mẽ và đã đạt được những thành tựu quan trọng, khẳng định rõ Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Không chỉ góp phần nòng cốt trong việc tổ chức thành công nhiều trọng trách quốc tế lớn, nhất là chủ nhà của Hội nghị cấp cao Pháp ngữ (1997), ASEAN (1998, 2010, 2020), ASEM (2005), APEC (2006, 2017), ngoại giao còn chủ động, tích cực đưa ra nhiều ý tưởng, sáng kiến, góp phần vào giải quyết các vấn đề chung của khu vực và thế giới.

Đặc biệt, ngoại giao đã góp phần quan trọng trong việc tổ chức Hội nghị thượng đỉnh Mỹ – Triều Tiên lần thứ 2 tại Hà Nội, qua đó thúc đẩy đối thoại, hòa giải, hòa bình trên bán đảo Triều Tiên, được các đối tác và cộng đồng quốc tế đánh giá rất cao. Việt Nam đã tham gia và đóng góp tích cực ở hầu hết các tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, nhất là ASEAN, ASEM, APEC và Liên Hợp quốc, G7, G20… được bạn bè, đối tác đánh giá cao.

Ngoại giao cùng với quốc phòng, an ninh đã góp phần hiệu quả vào bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Trong đó, ngành ngoại giao cùng với các bộ, ngành liên quan nỗ lực đàm phán, xây dựng đường biên giới trên bộ hoà bình, hữu nghị và phát triển với Lào, Campuchia và Trung Quốc. Đồng thời, ngoại giao đã phối hợp chặt chẽ với quốc phòng và công an trong công cuộc “giữ nước từ sớm, từ xa, từ khi nước còn chưa nguy”, nhất là đấu tranh bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền của nước ta ở Biển Đông.

Bên cạnh đó, ngoại giao ngày càng gắn kết hơn với người dân, các địa phương và các doanh nghiệp trong quá trình phát triển. Nhiều hoạt động ngoại giao kinh tế thiết thực được tổ chức triển khai, góp phần mở rộng thị trường, đối tác cho doanh nghiệp. Ngoại giao văn hóa đã quảng bá một hình ảnh Việt Nam giàu bản sắc đang đổi mới thành công; đồng thời vận động để đến nay 39 di sản của Việt Nam đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới, qua đó vừa đóng góp cho việc bảo vệ các giá trị của nhân loại, vừa tạo nguồn lực cho phát triển ở nhiều địa phương. Đồng thời, ngành ngoại giao đã triển khai tích cực, hiệu quả công tác bảo hộ công dân và công tác người Việt Nam ở nước ngoài.

Để đạt được những kết quả ý nghĩa trên, bên cạnh việc kiên định với nguyên tắc cơ bản là độc lập, tự chủ, đặt lợi ích của quốc gia – dân tộc lên trên hết, ngoại giao đã luôn sát cánh cùng các binh chủng đối ngoại khác như đối ngoại Đảng, đối ngoại Quốc hội, đối ngoại nhân dân, đối ngoại quốc phòng – an ninh và đối ngoại của từng bộ, ngành, địa phương triển khai hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế, cùng phấn đấu vì mục tiêu chung là phục vụ tốt nhất các lợi ích an ninh, phát triển của đất nước, nâng cao hơn nữa vị thế của Việt Nam.

Đặc biệt, lực lượng cán bộ ngoại giao đã không ngừng lớn mạnh, từ 20 cán bộ trong những ngày đầu thành lập đã phát triển thành hàng nghìn cán bộ ngày càng chuyên nghiệp, tinh nhuệ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thông nghiệp vụ. Từ chỗ chỉ có 3 cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài, đến nay mạng lưới các cơ quan đại diện đã tăng lên 94 cơ quan ở khắp các châu lục trên thế giới.

Bên cạnh việc vận dụng khéo léo những bài học ngoại giao của thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc và tái thiết đất nước sau chiến tranh, ngoại giao thời kỳ đổi mới đã đúc rút nhiều bài học quý giá. Đó là các bài học về xây dựng, phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác lâu bền với các nước láng giềng, quan tâm xử lý khôn khéo quan hệ với các nước lớn, phối hợp thường xuyên, chặt chẽ giữa các binh chủng đối ngoại, phát huy “sức mạnh mềm” của dân tộc để nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của nước ta.

Ngoại giao trong thời đại mới

Thế giới đang chuẩn bị bước sang thập niên thứ 3 của thế kỷ 21 với những chuyển biến sâu sắc, mau lẹ và khó lường. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là nguyện vọng của các dân tộc trên thế giới, song đang gặp nhiều thách thức, nhất là tình trạng kinh tế thế giới suy thoái, cạnh tranh chiến lược nước lớn, các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống như dịch bệnh, môi trường, biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước. Dưới tác động của đại dịch COVID-19, những biến động trong cục diện quốc tế bị đẩy nhanh hơn, tác động trực tiếp, nhiều chiều tới môi trường an ninh và phát triển của Việt Nam, đem lại thời cơ và thách thức mới đan xen.

Trong bối cảnh mới đó, ngành ngoại giao cần tiếp tục phát huy vai trò tiên phong trong việc tạo dựng môi trường hòa bình, thuận lợi cho phát triển, nâng cao vị thế của đất nước. Theo đó, chúng ta cần xây dựng nền ngoại giao hiện đại cả về lực lượng, nội dung và phương thức hoạt động, trên cơ sở kế thừa truyền thống ngoại giao Việt Nam và tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Đồng thời ngành ngoại giao sẽ chủ động, tích cực thúc đẩy tinh thần đổi mới sáng tạo, thích ứng năng động trước những chuyển biến nhanh của tình hình để hoàn thành được vai trò đặt ra đối với ngành trong giai đoạn mới.

Với thế và lực mới của đất nước, phát huy truyền thống vẻ vang và những thành tựu to lớn trong 75 năm qua, tiếp bước tinh thần ngoại giao đồng hành cùng đất nước, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngoại giao Việt Nam nguyện tiếp tục vững bước tiến lên, viết tiếp những trang sử vàng của nền ngoại giao hiện đại, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

PHẠM BÌNH MINH (Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao)
Theo Tuổi Trẻ (2020)
—————–
Đóng góp của ngành đối ngoại trong quá trình đổi mới tư duy, phục vụ sự nghiệp Đổi mới
Sau gần 35 năm Đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng từng nói: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, uy tín và vị thế như ngày nay”. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đổi mới tư duy là đòi hỏi tất yếu, nhằm thích ứng tốt hơn với thực tiễn thay đổi không ngừng và hiện thực hóa khát vọng vươn lên của dân tộc.
Ngọn hải đăng của đổi mới tư duy là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhận thức được tầm quan trọng của việc tiếp xúc với bên ngoài để đổi mới tư duy bên trong, ngay từ đầu thế kỷ 20, Bác Hồ đã sớm ra nước ngoài tìm đường cứu nước. Nhờ nắm bắt được xu thế của thời đại, kết hợp nội lực với ngoại lực, Người đã cùng Đảng ta dẫn dắt dân tộc ta chiến thắng thực dân và đế quốc xâm lược. Tư tưởng của Người đã soi sáng cho Cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Theo dấu bước chân Người, ngành đối ngoại có điều kiện thường xuyên tiếp xúc, chiêm nghiệm các xu thế, trào lưu của thế giới, từ đó tạo nền tảng cho quá trình đổi mới tư duy phù hợp với tình hình và điều kiện trong nước. Với nền tảng là Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tư duy đối ngoại của Việt Nam không ngừng đổi mới, phát triển, kế thừa những giá trị truyền thống và bản sắc của dân tộc, tiếp thu tinh hoa nhân loại, phục vụ lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc.

Quá trình đổi mới tư duy đối ngoại từ 1986 đến nay

Đổi mới tư duy đối ngoại là sự đổi mới trong đánh giá tình hình quốc tế, trong hoạch định và triển khai đường lối đối ngoại để từ đó bảo vệ và thúc đẩy hiệu quả hơn lợi ích quốc gia – dân tộc. Điều này đã thể hiện rõ qua các giai đoạn của Đổi mới, từ phá thế bao vây cấm vận (1986-1995), mở rộng quan hệ và hội nhập kinh tế quốc tế (1995-2010), giai đoạn đưa quan hệ đi vào chiều sâu và hội nhập quốc tế toàn diện (2011-nay).

Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đổi mới tư duy”, Đại hội VI (tháng 12/1986) đã đề ra chủ trương đổi mới toàn diện. Tiếp đó, Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị (tháng 5/1988) đã thể hiện sự đổi mới tư duy mạnh mẽ trong đánh giá tình hình thế giới và chuyển hướng toàn bộ chiến lược đối ngoại của nước ta. Từ nhận định xu thế đấu tranh và hợp tác giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau ngày càng phát triển, Nghị quyết đã đề ra chủ trương “chuyển cuộc đấu tranh từ trạng thái đối đầu sang đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình” và nhấn mạnh “với một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa đủ mạnh cùng với sự mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chúng ta sẽ càng có nhiều khả năng giữ vững độc lập và xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa hơn”.

Kể từ đó, Việt Nam từng bước phá thế bao vây cấm vận và triển khai đường đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Ta lần lượt bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (1991), Mỹ (1995), thúc đẩy quan hệ với các nước láng giềng, khu vực và các nước quan trọng trên thế giới; đồng thời từng bước gia nhập các tổ chức khu vực, liên khu vực và quốc tế quan trọng, trong đó có ASEAN (1995), ASEM (1996), APEC (1998), WTO (2007)…

Dấu mốc quan trọng tiếp theo trong đổi mới tư duy đối ngoại Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX (2003) với quan điểm mới về đối tác – đối tượng, về hợp tác và đấu tranh. Theo đó, ta đã nỗ lực gia tăng điểm đồng, hóa giải điểm khác biệt, thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ với các nước, đặc biệt là việc thiết lập mạng lưới Đối tác chiến lược, Đối tác toàn diện với 30 nước trên thế giới.

Tư duy về hội nhập quốc tế có bước phát triển mạnh mẽ. Từ lo ngại về “đổi mới dẫn đến đổi màu”, “hòa nhập dẫn đến hòa tan”, chúng ta đã hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ và sau đó là hội nhập quốc tế toàn diện trên các lĩnh vực, đồng thời xử lý tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Về hội nhập kinh tế, việc ta tham gia các Hiệp định thương mại tự do (FTA) chất lượng cao như CPTPP, EVFTA… đã giúp tạo ra những động lực to lớn cho tăng trưởng. Về quốc phòng, ta đã cử hàng trăm quân nhân tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, thể hiện trách nhiệm quốc tế của Việt Nam. Các mặt hội nhập về chính trị, an ninh, xã hội, văn hóa, khoa học công nghệ… được thúc đẩy mạnh mẽ, giúp phát huy hiệu quả lợi ích quốc gia – dân tộc.

Tư duy đối ngoại đa phương có bước phát triển quan trọng, với việc Đại hội XII (2016) đã đề ra phương châm chủ động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương. Chỉ thị số 25 của Ban Bí thư (tháng 8/2018) đã cụ thể hóa phương châm này, đồng thời nhấn mạnh nỗ lực vươn lên để đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt, hòa giải tại các diễn đàn, tổ chức đa phương quan trọng phù hợp với khả năng và điều kiện cụ thể. Trong thực tiễn triển khai, đối ngoại đa phương đã nỗ lực đóng góp tích cực, hiệu quả, bằng nhiều ý tưởng, sáng kiến, được bạn bè quốc tế đánh giá cao, nhất là trong vai trò Chủ nhà APEC 2017, Chủ tịch ASEAN 2020, Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021, chủ nhà của Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ – Triều lần 2 (2019)…

Đổi mới tư duy đối ngoại còn được thể hiện ở việc không ngừng hoàn thiện nội hàm lợi ích quốc gia – dân tộc. Đại hội XII nên rõ phải “bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi”. Lợi ích quốc gia – dân tộc của Việt Nam không phải là những lợi ích dân tộc vị kỷ, hẹp hòi, mà được xác định trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi. Việc bảo đảm lợi ích quốc gia – dân tộc phải là nguyên tắc tối cao của mọi hoạt động đối ngoại.

Đối ngoại là động lực quan trọng của đổi mới tư duy và phát triển đất nước
Cùng với quá trình đổi mới tư duy nêu trên, ngành đối ngoại đã đạt được những thành tựu quan trọng, vừa đóng góp vào quá trình đổi mới tư duy trên tất cả các lĩnh vực, vừa tạo ra các điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp Đổi mới.

Thứ nhất, ngành đối ngoại đã triển khai thắng lợi các nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó, đóng góp hiệu quả vào việc củng cố môi trường hòa bình, ổn định, giữ nước từ xa, từ khi nước còn chưa nguy; đồng thời tranh thủ các nguồn lực bên ngoài (thị trường, nguồn vốn, khoa học công nghệ, tinh hoa văn hoá thế giới…) cho phát triển bền vững, nâng cao vị thế quốc tế của nước ta, thực hiện thành công sự nghiệp Đổi mới.

Thứ hai, đối ngoại đóng góp vào nghiên cứu, đánh giá đúng tính chất của thời đại, xu thế và cục diện thế giới, đồng thời trực tiếp tham gia vào quá trình hoạch định và triển khai chính sách phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngay từ những ngày đầu của Đổi mới, những nghị quyết, văn kiện về đối ngoại đã đóng góp nhiều nhận thức mang tính đột phá, chỉ ra đặc điểm của môi trường chính trị, an ninh, đối ngoại và kinh tế đối ngoại của nước ta, từ đó đưa ra những khuyến nghị chính sách đúng và trúng, góp phần giúp nước ta nắm bắt, tận dụng tốt những cơ hội và xử lý hiệu quả những thách thức đến từ môi trường quốc tế luôn thay đổi.

Thứ ba, đối ngoại cũng đóng góp vào đổi mới tư duy của các ngành, lĩnh vực khác. Trong quá trình triển khai hoạt động đối ngoại, tất cả các “binh chủng” gồm đối ngoại Đảng, Ngoại giao Nhà nước, Ngoại giao Nghị viện, đối ngoại Nhân dân có cơ hội chia sẻ, học hỏi những kinh nghiệm của thế giới, từ đó nâng cao nhận thức và thúc đẩy đổi mới tư duy ngày một hoàn thiện hơn trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, môi trường đến các lĩnh vực mới như biến đổi khí hậu, Cách mạng công nghiệp 4.0, an ninh mạng…

Thứ tư, ngành đối ngoại đóng góp trực tiếp vào sự phát triển kinh tế – xã hội trong nước thông qua các hoạt động ngoại giao kinh tế phong phú, hiệu quả, nhất là tham mưu cho Đảng và Nhà nước ta các chủ trương lớn liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó có việc tham gia mạng lưới 16 FTA để tạo động lực cho tăng trưởng. Ngoại giao kinh tế đã đồng hành, hỗ trợ các địa phương, doanh nghiệp trong nỗ lực tiếp cận và mở rộng thị trường ra bên ngoài, qua đó đóng góp hiệu quả cho sự phát triển bền vững, sáng tạo của đất nước.

Hướng tới Đại hội XIII, toàn đảng, toàn dân, toàn quân ta đang nỗ lực phấn đấu để hiện thực hóa khát vọng của dân tộc về một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, có vị thế cao trong cộng đồng quốc tế trong bối cảnh thế giới đang biến động nhanh chóng, phức tạp, khó lường, trong đó có những chuyển biến do đại dịch Covid-19 gây ra. Do đó, đối ngoại cần không ngừng theo dõi, nắm bắt những xu thế thế giới, tiếp tục đổi mới tư duy và hành động, để khó khăn nào cũng vượt qua, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành. Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã căn dặn tại Hội nghị Ngoại giao năm 2018, chúng ta cần có suy nghĩ và hành động vượt tầm quốc gia, đạt tới tầm khu vực và quốc tế. Ngành đối ngoại sẽ tiếp tục phát huy truyền thống, xứng đáng là đội ngũ tiên phong trong củng cố môi trường hòa bình, ổn định, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp Đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bùi Thanh Sơn, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Thường trực Ngoại giao

Theo SGGP (2020)

—————-

Lợi ích quốc gia-dân tộc là nguyên tắc tối cao của hoạt động đối ngoại

Theo Thứ trưởng Đặng Đình Quý, lợi ích quốc gia – dân tộc phải là tối thượng, là tiêu chí hàng đầu đánh giá hiệu quả của mọi hoạt động đối ngoại.

“Trong bối cảnh tình hình thế giới chuyển biến rất nhanh, với những tác động thuận nghịch đan xen đối với nước ta thì đường lối chính sách đối ngoại mà Đại hội XII đưa ra có giá trị định hướng rất quý báu và tạo thuận lợi lớn cho công tác đối ngoại thời gian tới”. Đây là nhận định của Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đặng Đình Quý trong cuộc trả lời phỏng vấn báo chí nhân dịp Hội nghị Ngoại giao lần thứ 29 đang diễn ra tại Hà Nội.

PV: Xin Thứ trưởng cho biết nội dung những điểm mới quan trọng và đáng chú ý nhất về đường lối đối ngoại trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.

Thứ trưởng Đặng Đình Quý: Lần đầu tiên, nhiệm vụ đối ngoại nằm trong các thành tố của chủ đề Đại hội. Chủ đề Đại hội và tiêu đề Báo cáo chính trị Đại hội XII của Đảng là “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.”

Như vậy, so với Đại hội XI, Đại hội XII đã bổ sung vào chủ đề nội dung “bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định” để nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác đối ngoại trong tổng thể đường lối phát triển đất nước và đồng thời nêu rõ hai nhiệm vụ quan trọng nhất của đối ngoại là bảo vệ Tổ quốc và giữ vững môi trường hòa bình ổn định để chúng ta triển khai các nhiệm vụ xây dựng đất nước trong 5 năm tới và các năm tiếp theo.

Văn kiện Đại hội XII cũng đề cập rõ hơn và ở mức cao nhất mục tiêu đối ngoại. Lần đầu tiên, mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc” được nêu trong Văn kiện Đại hội XI. Văn kiện Đại hội XII làm rõ hơn và phát triển thành “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi.” Qua đó, Đảng ta khẳng định: Thứ nhất, lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc là đồng nhất; thứ hai, lợi ích quốc gia – dân tộc của Việt Nam được xác định trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, không phải là những lợi ích dân tộc vị kỷ, hẹp hòi; thứ ba, bảo đảm lợi ích quốc gia – dân tộc phải là nguyên tắc tối cao của mọi hoạt động đối ngoại, lợi ích quốc gia – dân tộc phải là tối thượng, là tiêu chí hàng đầu đánh giá hiệu quả của mọi hoạt động đối ngoại.

Lần đầu tiên, phương châm chỉ đạo các hoạt động đối ngoại được nêu rõ hơn. Trong văn kiện Đại hội Đảng khẳng định phương châm đối ngoại “vừa hợp tác, vừa đấu tranh.” Trước đó, phương châm này đã được nêu trong nghị quyết Trung ương VIII (2003), nhưng ở tầm văn kiện Đại hội toàn quốc của Đảng, đây là lần đầu tiên Đảng ta khẳng định phương châm này để nhấn mạnh tính chất hai mặt, đan xen trong quan hệ đối ngoại và theo đó là sự linh hoạt trong quan hệ đối ngoại của chúng ta để phục vụ lợi ích quốc gia – dân tộc.

Quan điểm chỉ đạo việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được nêu cụ thể hơn. Hai nhiệm vụ đối ngoại “giữ vững môi trường hòa bình” và “bảo vệ vững chắc Tổ quốc” có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Nếu giữ vững được môi trường hòa bình, các hoạt động đối ngoại đã thực hiện được phương châm thêm bạn bớt thù, tức là đã đóng góp trực tiếp vào việc bảo vệ Tổ quốc từ xa và giữ nước từ khi nước chưa nguy. Điều này giúp khẳng định vị thế và vai trò chủ công, là tuyến đầu của công tác đối ngoại trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Ngoài ra, Văn kiện lần đầu tiên nêu rõ: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.” Điều đó có nghĩa là lần đầu tiên Đảng ta cụ thể hóa nội hàm của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Bảo vệ Tổ quốc có nghĩa là phải bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; Đảng, Nhà nước; nhân dân; và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đây đồng thời là nội hàm chính của lợi ích quốc gia – dân tộc, là những lợi ích cốt lõi và sống còn toàn Đảng toàn dân ta quyết tâm bảo vệ đến cùng.

Đồng thời văn kiện Đảng cũng nêu rõ phương châm “kiên quyết, kiên trì,” theo đó đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, nhất là bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, không được nóng vội, manh động mà phải tận dụng mọi biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, tận dụng mọi kênh, mọi phương thức có thể trong khi không loại trừ bất kỳ biện pháp, phương cách nào để quyết bảo vệ đến cùng các lợi ích kể trên.

Các quan điểm chỉ đạo, định hướng lớn đối với quá trình hội nhập quốc tế được nêu rõ hơn trong văn kiện Đại hội XII. Định hướng hội nhập quốc tế được nêu trong Văn kiện Đại hội XI được Văn kiện Đại hội XII cụ thể hóa bằng những quan điểm chỉ đạo cụ thể gồm:

Thứ nhất, phải bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị. Thứ hai, đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh của đất nước. Thứ ba, hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế. Và thứ tư, hội nhập là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu, bất lợi.

Văn kiện Đại hội XII cũng nêu nõ những định hướng lớn đối với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, hội nhập trong các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa, xã hội và các lĩnh vực khác. Theo đó, trong 5 năm tới, hội nhập kinh tế quốc tế tập trung vào quá trình triển khai các cam kết đã ký kết; hội nhập trong lĩnh vực chính trị tập trung vào việc đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác chiến lược và các nước lớn có vai trò quan trọng đối với an ninh và phát triển của đất nước, đưa khuôn khổ đã xác lập đi vào thực chất; hội nhập trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh tham gia các hoạt động hợp tác ở mức cao hơn như hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc, diễn tập chung và các hoạt động khác; và hội nhập trong lĩnh vực văn hóa – xã hội tập trung vào việc áp dụng và tham gia xây dựng các bộ tiêu chí phục vụ xây dựng nền kinh tế trí thức, con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

Đặc biệt, văn kiện Đại hội XII đã nhấn mạnh yêu cầu phát triển công tác đối ngoại đa phương. Định hướng về công tác đối ngoại đa phương được nêu rõ: “Chủ động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương,” và “chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên Hợp Quốc”.

Định hướng này đặt ra yêu cầu mới: công tác đối ngoại đa phương không chỉ phải chuyển mạnh từ “tham dự” sang “chủ động tham gia,” nhất là vào quá trình xây dựng và định hình các quy tắc và luật lệ mới, mà còn phải phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương. Xuất phát từ lợi ích quốc gia – dân tộc, phát huy vai trò tức là phải nâng cao được vị thế, vai trò và tận dụng hiệu quả vị thế, vai trò tại các cơ chế đa phương để bảo đảm các lợi ích phát triển và an ninh của đất nước. Định hướng này cũng chỉ rõ các cơ chế đa phương được ưu tiên trong 5 năm tới là ASEAN và Liên Hợp Quốc.

PV: Theo Thứ trưởng, việc triển khai hoạt động đối ngoại cụ thể theo những điểm mới trên sẽ tạo ra những thuận lợi và thử thách gì mới đối với công tác đối ngoại trong giai đoạn tới? 

Thứ trưởng Đặng Đình Quý: Trong bối cảnh tình hình thế giới chuyển biến rất nhanh, với những tác động thuận nghịch đan xen đối với nước ta thì đường lối chính sách đối ngoại mà Đại hội XII đưa ra có giá trị định hướng rất quý báu và tạo thuận lợi lớn cho công tác đối ngoại thời gian tới.

Cụ thể, công tác đối ngoại sẽ được xây dựng trên một cơ sở đồng thuận xã hội lớn hơn, đó là lợi ích quốc gia – dân tộc. Đồng thuận lớn hơn sẽ góp phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, tăng cường nhất trí trong toàn bộ hệ thống chính trị về các vấn đề đối ngoại, và theo đó huy động nhiều hơn nữa nguồn lực bên trong cho công tác đối ngoại và kết hợp với sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong công tác đối ngoại. Bài học “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công đại thành công” mà Hồ Chủ tịch đã dạy sẽ càng được phát huy từ việc thống nhất theo đuổi lợi ích quốc gia – dân tộc trong công tác đối ngoại.

Quan trọng hơn, nhấn mạnh việc theo đuổi lợi ích quốc gia – dân tộc đã góp phần khẳng định sự lãnh đạo của Đảng trong công tác đối ngoại. Đảng không có lợi ích gì khác ngoài việc theo đuổi lợi ích quốc gia dân tộc. Lợi ích quốc gia – dân tộc đã trở thành tiêu chí tối cao để đánh giá hiệu quả sự chỉ đạo của Đảng trong hoạch định và của toàn bộ hệ thống trong triển khai đường lối đối ngoại của Đảng.

Sự khẳng định theo đuổi lợi ích quốc gia – dân tộc còn làm cơ sở cho chúng ta áp dụng bài học đối ngoại rất thành công trong thời đại Hồ Chí Minh là “dĩ bất biến, ứng vạn biến.” Giờ đây, “cái bất biến” được khẳng định là lợi ích quốc gia – dân tộc, và đó là cơ sở gốc để chúng ta ứng xử một cách có nguyên tắc nhưng rất linh hoạt và “vạn biến” trong công tác đối ngoại.

Cuối cùng, việc theo đuổi lợi ích quốc gia – dân tộc còn tạo cơ sở ngày càng vững chắc để chúng ta đấu tranh và hợp tác với các đối tác bên ngoài. Chúng ta chỉ theo đuổi những lợi ích quốc gia – dân tộc không vị kỷ, hẹp hòi, quan tâm đến lợi ích của đối tác, và phù hợp với luật pháp quốc tế. Đây là những cơ sở rất có sức thuyết phục để chúng ta triển khai công tác đối ngoại, do tạo ra điểm đồng lợi ích để xây dựng quan hệ cùng có lợi với các đối tác và tạo cơ sở đấu tranh khi lợi ích không song trùng.

Công tác đối ngoại triển khai nghị quyết Đại hội XII cũng sẽ gặp phải một số thử thách lớn hơn trước. Ngoài thực tế là tình hình thế giới và khu vực đang có những chuyển biến nhanh chóng và khó lường tạo ra các thách thức mới, yêu cầu đối với công tác đối ngoại của nước ta trong thời gian tới sẽ tạo ra các thử thách lớn hơn mà công tác đối ngoại cần phải xử lý.

Thứ nhất, thời gian 5 năm tới là giai đoạn then chốt của sự nghiệp đổi mới ở nước ta để đưa nước ta bước vào hàng ngũ nước công nghiệp hóa – hiện đại hóa với các mô hình tăng trưởng mới và bền vững hơn. Công tác đối ngoại phải phục vụ nhiệm vụ then chốt này. Không chỉ hoàn thành tốt nhiệm vụ tạo và giữ môi trường hòa bình ổn định, công tác đối ngoại phải trực tiếp phục vụ phát triển đất nước thông qua việc khai thác các nguồn lực bên ngoài và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế để củng cố sự kết nối của nước ta về kinh tế, chính trị-an ninh, văn hóa-xã hội với khu vực và thế giới, tức là phải trở thành cầu nối quan trọng để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại.

Thứ hai, công tác đối ngoại đã trở thành tuyến đầu trong việc bảo vệ an ninh và chủ quyền đất nước và bảo vệ đất nước từ xa. Để làm được điều này, công tác đối ngoại phải đóng góp trực tiếp vào việc đưa các mối quan hệ của Việt Nam với các đối tác đi vào chiều sâu để củng cố xu thế hữu nghị và hợp tác của các đối tác đó với Việt Nam, đồng thời chủ động và tích cực tham gia tạo dựng luật chơi trong các tổ chức đa phương, nhất là ASEAN và Liên Hợp Quốc để có thể tận dụng chính các luật chơi đó bảo vệ có hiệu quả quyền lợi quốc gia – dân tộc của chúng ta.

Tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 28, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định “công tác đối ngoại có vai trò đi đầu trong việc đảm bảo môi trường hòa bình thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.” Nói cách khác, Đảng, Nhà nước và nhân dân đang có những kỳ vọng mới đối với công tác đối ngoại, và điều đó yêu cầu ngành đối ngoại phải chủ động và tích cực hơn đương đầu với những thử thách mới để hoàn thành nhiệm vụ của mình.

Thứ ba là công tác đối ngoại đã ngày càng trở nên đa dạng và toàn diện, đòi hỏi sự tham gia của toàn bộ hệ thống chính trị, tất cả các bộ ngành, địa phương, doanh nghiệp và cả người dân. Điều này làm cho yêu cầu xây dựng và hoàn thiện cơ chế thống nhất quản lý công tác đối ngoại, công tác xây dựng và nâng cao năng lực hội nhập ngày càng trở nên quan trọng hơn, và nhu cầu giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc trong bối cảnh hội nhập cũng đã trở nên bức thiết hơn.

PV: Những điểm mới kể trên có tạo ra những thử thách lớn hơn đối với các nhà ngoại giao, đặc biệt là các nhà ngoại giao trẻ?

Thứ trưởng Đặng Đình Quý: Tại Hội nghị Ngoại giao 28, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã nói: “Trong thời bình, cán bộ ngoại giao phải đi đầu trong kiến tạo hòa bình, bảo vệ Tổ quốc và thu hút nguồn nhân lực cho phát triển đất nước.” Điều đó có nghĩa là cán bộ đối ngoại đang có vinh dự trở thành người chiến sĩ trên mặt trận hàng đầu bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Vinh dự lớn hơn bao giờ cũng đi kèm với trách nhiệm lớn hơn.

Nhiệm vụ mới đang đặt ra yêu cầu là các cán bộ đối ngoại càng phải có lập trường tư tưởng vững chắc, yêu nước và trung thành với Đảng và dân tộc. Đặc biệt, các cán bộ đối ngoại cũng phải hiểu biết rất rõ tình hình đất nước, các yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới để định hướng công việc của mình. Đồng thời, các cán bộ đối ngoại phải có bản lĩnh và năng lực ngang tầm nhiệm vụ, và nhất là phải có kiến thức và kỹ năng thực sự chuyên nghiệp trên các mặt, nhất là chính trị quốc tế, kinh tế và luật pháp quốc tế, ngoại ngữ và nghiên cứu để có thể hoạt động có hiệu quả trong cả môi trường đối ngoại song phương và đa phương.

Trong thời gian tới, các nhà ngoại giao Việt Nam phải đạt trình độ chuyên nghiệp chí ít bằng mức các đồng nghiệp ASEAN. Đây là những yêu cầu và thử thách mới không hề nhỏ đối với cán bộ đối ngoại trong thời gian tới.

Các cán bộ ngoại giao trẻ càng phải cố gắng nhiều hơn nữa. Đó là vì việc trau dồi tư tưởng lập trường chính trị, nâng cao kiến thức, tinh thần và tác phong chuyên nghiệp là một quá trình phấn đấu lâu dài và bền bỉ thường xuyên theo nguyên lý “lượng biến thành chất.” Theo đó, kiến thức và kỹ năng phải được tích lũy, bản lĩnh phải được thử thách từ trong công việc hàng ngày. Đặc biệt, các cán bộ ngoại giao trẻ còn phải đề cao nhiệt huyết, tinh thần năng động, đổi mới, dám nghĩ dám làm của tuổi trẻ để nhanh chóng trưởng thành trong công việc, đóng góp sức trẻ vào sự phát triển của ngành đối ngoại trong tình hình mới./.

Xin cảm ơn Thứ trưởng!./.

—————

Triển khai hiệu quả công tác đối ngoại trong giai đoạn chiến lược mới

Trong các giai đoạn của sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, trên cơ sở kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, việc không ngừng đổi mới tư duy trong hoạch định và triển khai chính sách đã trở thành một quy luật, một bài học quý và là nhân tố quan trọng dẫn đến thành công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Dự thảo văn kiện trình Ðại hội Ðảng lần thứ XIII đã đánh giá toàn diện kết quả công tác, bài học kinh nghiệm của Ðại hội XII, tiếp tục kế thừa và phát triển trí tuệ của Ðảng ta qua các kỳ Ðại hội trước, đồng thời thể hiện mạnh mẽ tinh thần đổi mới tư duy, trong đó có tư duy đối ngoại, phù hợp với thực tiễn thay đổi không ngừng và với thế và lực mới của đất nước.
Những chuyển biến lớn trong môi trường đối ngoại

Trước hết, dự thảo văn kiện trình Ðại hội XIII đã tiếp tục tinh thần đổi mới tư duy trong đánh giá sâu sắc về cục diện và những xu hướng lớn đang nổi lên trên thế giới. Tư duy duy vật biện chứng, cách nhìn nhận toàn diện, khách quan, khoa học cả hai mặt thách thức và cơ hội của tình hình quốc tế được thể hiện rõ trong dự thảo.

Thứ nhất, tiếp tục khẳng định những xu thế, dòng chảy lớn của thời đại, dự thảo đã làm rõ hơn những mặt thuận và không thuận đang diễn ra. Theo đó, hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn, là mong mỏi và nguyện vọng thiết tha của mọi dân tộc, nhưng “đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn”. Dự thảo khẳng định “Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển”, đồng thời chỉ rõ các hiện tượng trái chiều đang nổi lên, trong đó có sự gia tăng của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn… Cách nhìn nhận biện chứng đó cho thấy sự cần thiết tiếp tục kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế như đã nêu trong dự thảo, đồng thời cần linh hoạt về sách lược, nâng cao khả năng chủ động ứng phó đối với những thách thức trong đời sống quốc tế, nhằm giữ vững môi trường hòa bình ổn định, tranh thủ tối đa thuận lợi và nguồn lực bên ngoài phục vụ cho phát triển đất nước.

Thứ hai, dự thảo đã có những đánh giá mới, cập nhật về kinh tế thế giới, với tính cảnh báo cao. Dự thảo nêu “kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng, suy thoái nghiêm trọng và có thể còn kéo dài do tác động của đại dịch Covid-19”. Vai trò của khoa học – công nghệ cũng được dự thảo nhấn mạnh: “Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc”. Dự thảo nhận định các quốc gia đang điều chỉnh chiến lược phát triển để thích ứng với tình hình mới. Bối cảnh trên đòi hỏi chúng ta phải chủ động, sáng tạo, phát huy mạnh mẽ nội lực, tạo ra các động lực mới cho tăng trưởng, đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, đồng thời tận dụng tốt ngoại lực để thực hiện thành công các mục tiêu phát triển đề ra.

Thứ ba, dự thảo đã chỉ rõ các thách thức liên quan mật thiết đến an ninh và phát triển của Việt Nam. Trước những chuyển động về địa chính trị ở châu Á – Thái Bình Dương, dự thảo tiếp tục khẳng định khu vực này “có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng” nhưng chỉ ra rõ các nguy cơ “cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn”. Dự thảo nhận diện rõ những thách thức an ninh phi truyền thống đang nổi lên: “Những vấn đề toàn cầu như bảo vệ hòa bình, an ninh con người, thiên tai, dịch bệnh, an ninh xã hội và an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường,… tiếp tục diễn biến phức tạp”. Ðiều này cho thấy môi trường an ninh và phát triển của nước ta trong thời gian tới đứng trước nhiều vấn đề mới, khó khăn, phức tạp hơn. Nhận định trên cũng phản ánh tư duy an ninh toàn diện của Việt Nam, đồng thời đặt ra yêu cầu phải bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước còn chưa nguy như đã nêu trong dự thảo.

Vai trò, nhiệm vụ của đối ngoại trong giai đoạn chiến lược mới

Tiếp tục tinh thần đổi mới trong hoạch định và triển khai chính sách, dự thảo văn kiện đã đề ra các mục tiêu phát triển đến các năm 2025, 2030, 2045, với khát vọng phát triển về một Việt Nam thịnh vượng, có vị thế cao trong cộng đồng quốc tế. Trong bối cảnh nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng với thế giới, dự thảo đã nhấn mạnh vai trò nòng cốt của đối ngoại góp phần quan trọng vào bảo vệ Tổ quốc và phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong giai đoạn chiến lược mới, thể hiện ở những mặt sau:

Một là, dự thảo đã tiếp tục đề cao quan điểm chỉ đạo “Bảo đảm trên hết và trước hết lợi ích quốc gia – dân tộc”, qua đó nhấn mạnh lợi ích quốc gia – dân tộc là kim chỉ nam, tiêu chí cao nhất trong triển khai hoạt động đối ngoại. Ðồng thời, dự thảo khẳng định Việt Nam không theo chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, mà “trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”.

Hai là, dự thảo thể hiện tầm quan trọng của đối ngoại, mặt trận có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước vào thế có lợi nhất trước những chuyển biến mau lẹ, khó lường của tình hình thế giới, khu vực. Dự thảo khẳng định trong giai đoạn chiến lược tới, đối ngoại cần “phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước”.

Ba là, đối ngoại đa phương được đặt ở vị trí quan trọng trong tổng thể các nhiệm vụ đối ngoại. Ðây là bước phát triển quan trọng về lý luận và thực tiễn từ Ðại hội XII và cũng là sự ghi nhận thành tựu của đối ngoại đa phương trong nhiều năm qua. Dự thảo đã làm rõ các nội hàm nhiệm vụ theo tinh thần Chỉ thị 25-CT/TW ngày 8-8-2018 của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030; nhấn mạnh cần chủ động tham gia phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng Mê Công, tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị – kinh tế quốc tế, trong những vấn đề và các cơ chế quan trọng có tầm chiến lược, phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện cụ thể.

Bốn là, dự thảo nêu “Nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, phong cách chuyên nghiệp, đổi mới sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế; chủ động thích ứng trước chuyển biến của tình hình”, qua đó nhấn mạnh con người là yếu tố quyết định, mang tính đột phá nhằm bảo đảm đáp ứng được các yêu cầu nhiệm vụ đối ngoại ngày một cao hơn trong tình hình mới. Các nội hàm “chuyên nghiệp”, “sáng tạo” và “chủ động thích ứng” được gắn với phương châm triển khai các hoạt động đối ngoại, và vừa là yêu cầu, vừa là sự ghi nhận phẩm chất của cán bộ đối ngoại.

Năm là, dự thảo khẳng định sự cần thiết phải “xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại” trên thực tế đã và đang định hình, phát triển ngày càng vững chắc trong thời gian qua. Kế thừa truyền thống ngoại giao của cha ông, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, việc phát triển nền ngoại giao toàn diện, hiện đại sẽ tiếp tục phát huy được sức mạnh của tất cả các binh chủng đối ngoại, bao gồm đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân, triển khai hiệu quả ngoại giao song phương và đa phương, trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, thông tin đối ngoại, công tác về người Việt Nam ở nước ngoài, bảo hộ công dân, v.v. Tính hiện đại của ngoại giao được thể hiện ở việc phát triển và nâng tầm phương thức triển khai công tác đối ngoại, trình độ của đội ngũ cán bộ, tổ chức bộ máy, cơ sở hạ tầng, công nghệ và trang thiết bị… đạt trình độ khu vực và vươn tầm quốc tế, giúp thúc đẩy hiệu quả lợi ích quốc gia – dân tộc và thích ứng linh hoạt với chuyển biến của tình hình mới.

Trong giai đoạn tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ có những chuyển biến mạnh mẽ, nhanh chóng, khó lường, đặt ra cả những cơ hội và thách thức không nhỏ đối với an ninh và phát triển của đất nước. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Ðảng, các binh chủng đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân và đối ngoại của các bộ, ngành, địa phương sẽ phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn trên mặt trận đối ngoại, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn chiến lược mới, hiện thực hóa mục tiêu đặt ra cho đất nước ta đến năm 2025, 2030 và 2045.

Bùi Thanh Sơn, Ủy viên T.Ư Đảng, Thứ trưởng Thường trực Ngoại giao

Theo Nhân dân (2020)

——————

Quán triệt nguyên tắc “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi” trong quan hệ đối ngoại thời kỳ hội nhập quốc tế

Lợi ích quốc gia – dân tộc là vấn đề có nội hàm rộng, bao hàm trong đó tất cả những gì tạo thành điều kiện cần thiết cho sự trường tồn của cộng đồng với tư cách quốc gia – dân tộc có chủ quyền, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; đồng thời, thể hiện sự phát triển đi lên về mọi mặt của quốc gia dân tộc theo hướng làm cho đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng ngày càng phong phú, tốt đẹp hơn; cho sự nâng cao không ngừng sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh quốc gia trên trường quốc tế, vị trí, vai trò, uy tín quốc tế của quốc gia, dân tộc. Các dân tộc trên thế giới đều coi lợi ích quốc gia – dân tộc căn bản nhất là Tổ quốc độc lập, thống nhất, giàu mạnh, lãnh thổ toàn vẹn (bao gồm vùng đất, vùng trời, vùng biển, hải đảo, thềm lục địa), nhân dân làm chủ đối với Tổ quốc mình. Lợi ích quốc gia – dân tộc chính đáng trong thế giới văn minh thường được xác định trong luật pháp quốc gia và phù hợp với luật pháp, thông lệ quốc tế, được công luận đồng tình. Tuy nhiên, trên thực tế, không phải tất cả những gì mà các chính phủ tuyên bố là “lợi ích quốc gia” đều là “lợi ích dân tộc” chính đáng. Cá biệt có không ít trường hợp giới cầm quyền ở một số nước sẵn sàng từ bỏ lợi ích dân tộc cơ bản để phục vụ lợi ích giai cấp, lợi ích phe nhóm. Điển hình như: Năm 1870, thủ đô Paris của nước Pháp bị quân Phổ bao vây. Lúc đó lợi ích quốc gia đòi hỏi giới cầm quyền tập trung mọi lực lượng của dân tộc để tổ chức kháng chiến, nhưng chính phủ Chie của giai cấp tư sản, vốn tự xưng là “chính phủ quốc phòng”, đã không làm thế. Tác phẩm “Nội chiến ở Pháp”, C.Mác viết: “Trong khi phải chọn giữa hai điều: nghĩa vụ dân tộc và lợi ích giai cấp thì chính phủ quốc phòng đã không hề do dự một phút nào mà biến ngay thành một chính phủ phản quốc”1.

Ở Việt Nam, vấn đề lợi ích quốc gia – dân tộc đã được dân tộc ta khẳng định từ rất sớm. Dưới thời chế độ phong kiến, lợi ích cốt lõi của quốc gia – dân tộc là độc lập dân tộc và chủ quyền lãnh thổ. Khi đất nước được trị vì bởi các vị vua sáng, tôi hiền, danh tướng lỗi lạc, như: Ngô Quyền, Lê Đại Hành, Lý Thái Tổ, Lê Thánh Tông, Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi… lợi ích của giới cầm quyền và lợi ích dân tộc được kết hợp hài hòa, nên khi quốc gia hữu sự đã huy động được sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc nhất tề khởi nghĩa đánh bại mọi cuộc chiến tranh xâm lược của ngoại bang, bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc. Những bài thơ bất hủ: Nam quốc sơn hà, Bình Ngô đại cáo được xem như là “Bản Tuyên ngôn độc lập” và những chiến công hiển hách: Trận tuyến sông Như Nguyệt, Bạch Đằng, Chi Lăng… đã minh chứng cho bản lĩnh, trí tuệ và tinh thần quyết chiến, quyết thắng của dân tộc Việt Nam bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc. Tuy nhiên, vào nửa cuối thế kỷ XVIII, trong bối cảnh chế độ phong kiến suy tàn, giới vua, chúa triều đình phong kiến hoặc bất lực không bảo vệ được lợi ích quốc gia – dân tộc, hoặc vì quyền lợi riêng mà bán rẻ lợi ích dân tộc. Trong cuộc giao tranh với Tây Sơn, để cầu xin viện trợ của thực dân Pháp, Nguyễn Ánh đã đem lợi ích của Đại Việt ra thương thảo với Pháp quốc (Hiệp ước 1787), nhường cho Pháp cửa Hội An, đảo Côn Lôn độc quyền buôn bán. Đây là bước mở đầu cho thời kỳ thực dân Pháp xâm lược nước ta. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp được quy tụ thống nhất, nhằm thực hiện mục tiêu xuyên suốt là Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc. Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản”.

Lợi ích cốt lõi quốc gia – dân tộc Việt Nam hiện nay là Độc lập dân tộc, chủ quyền lãnh thổ và chế độ xã hội (xã hội chủ nghĩa); xây dựng nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, góp phần tích cực vào xây dựng một thế giới hòa bình, độc lập, tự do và phát triển bền vững. Điều đó được thể hiện rõ nét thông qua sự kế thừa, phát triển sáng tạo, liên tục bổ sung, hoàn chỉnh đường lối đối ngoại của Đảng. Nổi bật hơn cả là, từ khi Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Hội nghị Trung ương 3 khóa VII (tháng 6/1992) khẳng định, mục tiêu “hòa bình và phát triển” trở thành chuẩn mực trong hoạt động quốc tế của Việt Nam, phục vụ cho lợi ích cao nhất của quốc gia – dân tộc là “nhanh chóng ra khỏi khủng hoảng, giữ vững, tăng cường ổn định chính trị, phát triển kinh tế – xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh, bảo vệ vững chắc độc lập và tự do của Tổ quốc”2. Trên tinh thần đó, “công tác đối ngoại phải phục vụ lợi ích đó của dân tộc… coi lợi ích dân tộc là cao nhất và thiêng liêng nhất”3. Tiếp đó, Hội nghị Trung ương 8 khóa IX (tháng 7/2003) Đảng ta chỉ rõ: “Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế – xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa là lợi ích cao nhất của Tổ quốc”4. Đại hội XI của Đảng (năm 2011) xác định, mục tiêu của đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ mới là “vì lợi ích quốc gia, dân tộc” và “vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”5.

Kế thừa, phát triển đường lối đối ngoại của các kỳ đại hội trước và quan điểm đối ngoại trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nghị quyết Đại hội XII của Đảng một lần nữa khẳng định: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi”. Điều này đã thể hiện tầm nhìn xa, trông rộng của Đảng trong hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại; phản ánh tư duy lô-gíc, khoa học về giải quyết hài hòa mối quan hệ lợi ích quốc gia – dân tộc Việt Nam với các quốc gia trên thế giới trong tiến trình hội nhập quốc tế. Đồng thời, khẳng định sự kiên định nguyên tắc cao nhất “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong các hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước và ngoại giao nhân dân: lấy lợi ích cốt lõi quốc gia – dân tộc là Độc lập dân tộc, chủ quyền lãnh thổ và chế độ xã hội (xã hội chủ nghĩa) – “bất biến”, làm cơ sở gốc, kim chỉ Nam để ứng xử một cách có nguyên tắc nhưng rất linh hoạt – “vạn biến” khi quan hệ đối ngoại thời kỳ hội nhập quốc tế.

1. “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi” trong quan hệ đối ngoại thời kỳ hội nhập quốc tế – cơ sở quan trọng thực hiện thắng lợi bài học “phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Tiến trình phát triển của mỗi quốc gia dân tộc luôn có sự gắn kết chặt chẽ với những nhân tố quốc tế. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam là thắng lợi của sự kết hợp thành công nhân tố dân tộc với nhân tố thời đại, sức mạnh quốc gia với sức mạnh quốc tế. Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Việt Nam đã phát huy tối đa sức mạnh quốc tế, sức mạnh thời đại kết hợp một cách vô cùng hiệu quả với sức mạnh dân tộc, làm thay đổi tương quan lực lượng ngày càng có lợi trong chiến đấu và chiến thắng thực dân, đế quốc, các thế lực phản động, làm nên một trong những bản hùng ca đẹp nhất của loài người tiến bộ trong thế kỷ XX. Sau gần 35 năm đổi mới, một lần nữa bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại lại để lại dấu ấn đặc sắc qua các kết quả, thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; trong đó, tư duy mới về đường lối đối ngoại của Đảng là một nguyên nhân quan trọng làm nên kết quả đó. Từ chỗ bị bao vây, cấm vận ngặt nghèo, đến nay, nước ta là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế: Có quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, thiết lập quan hệ đối tác với 16 quốc gia, quan hệ đối tác toàn diện với 14 quốc gia; là nước duy nhất trong ASEAN đã thiết lập khuôn khổ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với 5 nước thành viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, với toàn bộ các nước trong nhóm phát triển (G7), với 17/20 nước và tổ chức trong Nhóm các nền kinh tế mới nổi và phát triển hàng đầu thế giới (G20). Đồng thời, tham gia vào 70 tổ chức quốc tế và khu vực, ký trên 40 hiệp định thương mại song phương; có quan hệ kinh tế – thương mại với trên 220/255 quốc gia và vùng lãnh thổ; kim ngạch ngoại thương nhiều năm qua đạt từ 150 – 200% quy mô GDP, thu hút 270 tỷ USD đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và gần 90 tỷ USD viện trợ phát triển chính thức (ODA) được cam kết. Nhờ có đường lối đối ngoại đúng đắn, đến nay, nước ta đã tham gia hầu hết các thiết chế liên kết khu vực và toàn cầu, như: AFTA, APEC, ASEM, TPP, WTO…; đảm nhiệm ngày càng nhiều chức trách trong ASEAN, Liên hợp quốc và một số tổ chức quốc tế khác. Những kết quả, thành tựu đó đã đem lại cho đất nước môi trường quốc tế hòa bình, hữu nghị và các điều kiện thuận lợi kết hợp với các nguồn lực nội sinh trong nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp để làm nên những thành tựu chung của công cuộc đổi mới. Nhờ đó, chế độ xã hội trụ vững trước các thách thức lịch sử thời kỳ hậu Xô viết; đất nước khắc phục được khủng hoảng và ra khỏi tình trạng kém phát triển; kinh tế tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực; xã hội ổn định, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường; quốc phòng và an ninh được giữ vững; vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao, “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”. Đó là cơ sở vững chắc tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục vững bước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, trên phương diện quốc tế, bất lợi, thách thức lớn nhất đối với Việt Nam chính là quá trình điều chỉnh chiến lược của các nước lớn, với xu hướng “Không có bạn bè hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia là vĩnh viễn”, nên họ sẵn sàng thỏa hiệp một cách hết sức thực dụng, bấp chấp lợi ích, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các nước khác có liên quan. Trong khi đó, mặc dù nước ta có mối quan hệ quốc tế đa phương, đa dạng, nhưng chưa đủ chiều sâu, sự ổn định, tính vững chắc. Bởi vậy, đường lối chiến lược trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam là “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi”, đã và đang trở thành hướng đi tích cực, chủ động trên con đường hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, bền vững; phương châm chỉ đạo khoa học, phù hợp xu thế, nắm bắt trúng thời cơ, xử lý đúng đắn, hiệu quả mối quan hệ với các nước lớn và các nước láng giềng, làm cơ sở phát triển mạnh mẽ sự kết hợp chặt chẽ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế, tạo sức mạnh tổng hợp để khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

2. “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi” trong quan hệ đối ngoại thời kỳ hội nhập quốc tế – sự cụ thể hóa tư duy mới của Đảng về đối tác, đối tượng trong tình hình mới.

Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là xu hướng thời đại hiện nay. Nếu đứng ngoài xu thế đó, đất nước không thể phát triển và khó bảo vệ được vững chắc. Tuy nhiên, tham gia vào tiến trình hội nhập quốc tế, bên cạnh những mặt tích cực là chủ yếu, cũng có những mặt tiêu cực. Vì vậy, để hội nhập quốc tế đạt được hiệu quả, đòi hỏi chúng ta phải có chiến lược, kế hoạch tổng thể, xác định nội dung, lộ trình phù hợp; trong đó, nhận thức về đối tác, đối tượng là vấn đề rất quan trọng. Bởi, chỉ có nhận thức đúng về đối tác, đối tượng, chúng ta mới xác định đúng giải pháp, phương châm chỉ đạo đối với các vấn đề về đối ngoại, đối nội, các tình huống phức tạp, nhạy cảm một cách hiệu quả trong quá trình hội nhập. Thực tế cho thấy, trước đây, nhất là trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, quan điểm về đối tác, đối tượng (bạn, thù) của cách mạng Việt Nam chỉ rõ ai là bạn, ai là thù, nhưng hiện nay, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, quan hệ quốc tế có những phát triển mới, tư duy về đối tác, đối tượng đã được Đảng ta phát triển theo hướng biện chứng, linh hoạt. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” xác định: Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của chúng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng.

Quán triệt và thực hiện nguyên tắc “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi” không chỉ giúp ta có nhận thức đúng đối tác, đối tượng theo nguyên tắc, tiêu chí quy định, mà quan trọng hơn là để ta vận dụng đúng đắn quan điểm về đối tác, đối tượng vào thực tiễn quan hệ đối ngoại trong từng thời điểm, giai đoạn của cách mạng. Đồng thời, thấy rõ tính biện chứng, sự tồn tại đan xen và chuyển hóa lẫn nhau rất linh hoạt giữa đối tác và đối tượng trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay. Trên cơ sở đó, có chủ trương, biện pháp tranh thủ mặt tích cực của đối tượng, hạn chế mặt tiêu cực của đối tác, phục vụ cho lợi ích quốc gia – dân tộc, theo phương châm: “… Trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”. Đây là định hướng rất quan trọng để các cấp, ngành, lĩnh vực xử lý các vấn đề, các tình huống trong quan hệ hợp tác quốc tế một cách đúng đắn, linh hoạt, sáng tạo, tích cực, chủ động vừa hợp tác, vừa đấu tranh với từng đối tác, đối tượng trong từng thời điểm cụ thể một cách có hiệu quả. Qua đó, tăng mặt đồng thuận, giảm thiểu bất đồng trong quan hệ quốc tế – “thêm bạn, bớt thù”, nhằm mục tiêu vì lợi ích quốc gia – dân tộc, đưa nước ta không ngừng phát triển, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, góp phần giữ vững hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới để xây dựng, phát triển đất nước.

3. “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi” trong quan hệ đối ngoại thời kỳ hội nhập quốc tế – nền tảng bảo đảm hòa bình, an ninh và ổn định phục vụ phát triển bền vững.

Hiện nay, không chỉ ở Việt Nam mà tất cả các nước trên thế giới đều coi trọng lợi ích quốc gia – dân tộc khi thực thi chính sách đối ngoại. Tuy nhiên, do mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc khác nhau, nên lợi ích quốc gia – dân tộc của mỗi nước cũng không hoàn toàn giống nhau. Vì vậy, để có môi trường hòa bình, an ninh và ổn định phục vụ phát triển bền vững cho mỗi quốc gia, dân tộc và thế giới, vấn đề cốt lõi đặt ra cần phải tìm cho được “một chữ đồng”. Chữ “đồng” ở đây chính là sự tôn trọng luật pháp quốc tế – các nguyên tắc và quy phạm pháp luật được các quốc gia và chủ thể khác của luật quốc tế thỏa thuận tạo dựng nên, trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, nhằm điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữa quốc gia và các chủ thể đó trong mọi lĩnh vực của đời sống quốc tế. Đó là các nguyên tắc và quy phạm áp dụng chung mà không có sự phân biệt về tính chất, hình thức hay vị thế của từng quốc gia khi thiết lập quan hệ quốc tế giữa những chủ thể này với nhau. Hiểu một cách khác, trong hội nhập và mở rộng quan hệ quốc tế, mọi quốc gia, tổ chức, cá nhân bên cạnh việc không được xem nhẹ lợi ích của quốc gia – dân tộc, đặt lợi ích quốc gia – dân tộc mình lên trên hết, trước hết, thì cũng cần phải chấp hành nghiêm thông lệ quốc tế, các nguyên tắc, định chế của các tổ chức quốc tế trong quan hệ đối ngoại; tránh những tư tưởng, hành động vì lợi ích cục bộ, dân tộc chủ nghĩa, dân tộc cực đoan bất chấp luật pháp quốc tế.

Đối với Việt Nam, luôn xác định rõ hơn vị trí của mình trong phân công lao động quốc tế, cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị, chuỗi sản xuất và cung ứng khu vực và toàn cầu. Đường lối, chính sách và mục tiêu trước sau như một của chúng ta luôn luôn phù hợp với xu thế lớn của thế giới; lợi ích quốc gia – dân tộc của chúng ta góp phần bảo đảm môi trường quốc tế thuận lợi để cùng phát triển. Thực tiễn cho thấy, trên cơ sở nhất quán đường lối đối ngoại “độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi”6, Việt Nam luôn nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế mà mình tham gia, tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng, khu vực và quốc tế. Đồng thời, chủ động tích cực đề xuất sáng kiến xây dựng, định hình các thể chế đa phương trên nguyên tắc cùng có lợi, với phương châm chuyển mạnh từ “tham dự” sang “chủ động tham gia”; là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, nhất là vào quá trình xây dựng và định hình các quy tắc, cơ chế hợp tác và những luật lệ mới, củng cố và nâng cao vai trò trong cộng đồng khu vực và quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Việt Nam luôn đặt dân tộc mình vào dòng chảy của thời đại, nêu cao đại nghĩa của dân tộc, tranh thủ thiện cảm của nhân loại tiến bộ, nâng cao cả thực lực và vị thế của đất nước một cách bền vững nhất.

4. “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi” trong quan hệ đối ngoại thời kỳ hội nhập quốc tế là phải kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn làm phương hại đến lợi ích quốc gia – dân tộc Việt Nam.

Các thế lực thù địch hiện đang triệt để lợi dụng xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế để chống phá cách mạng nước ta bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ. Do vậy, cùng với thực hiện đồng bộ những biện pháp bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với hoạt động đối ngoại; phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân; giữa kinh tế, đối ngoại và quốc phòng, an ninh… chúng ta phải kiên quyết đấu tranh với những âm mưu và hành động xâm hại đến lợi ích hợp pháp của dân tộc ta; kích động, chia rẽ Việt Nam với cộng đồng quốc tế, khu vực; tư tưởng cực đoan, dân tộc chủ nghĩa, “cá lớn nuốt cá bé”, v.v. Trong đó, chú trọng đấu tranh bảo vệ lợi ích trực tiếp thông qua luật pháp quốc tế, định chế trong các tổ chức quốc tế, khu vực mà nước ta tham gia và ký kết hợp tác. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giải quyết những bất đồng, tranh chấp bằng giải pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế; bảo vệ toàn vẹn lợi ích quốc gia – dân tộc, góp phần bảo vệ lợi ích của cộng đồng quốc tế trên các lĩnh vực.

Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, tham mưu về đối ngoại; đổi mới nội dung, phương pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền đối ngoại, bảo hộ công dân và công tác về người Việt Nam ở nước ngoài. Chú trọng chăm lo đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại; bồi dưỡng kiến thức đối ngoại cho cán bộ chủ chốt các cấp. Tập trung nâng cao hiệu quả phối hợp giữa bộ, ban, ngành, địa phương. Đồng thời, phê phán và khắc phục kịp thời những biểu hiện chỉ thấy lợi ích trước mắt, không thấy lợi ích lâu dài, chỉ coi trọng lợi ích kinh tế, không thấy lợi ích chính trị, quốc phòng, an ninh trong quan hệ đối ngoại thời kỳ hội nhập quốc tế.

Việt Nam đang bước vào thời kỳ mới với thế và lực mới đã lớn mạnh hơn nhiều, cơ hội rất lớn, song thách thức cũng không nhỏ. Chúng ta tin tưởng rằng, với kinh nghiệm hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng của Đảng và đường lối đối ngoại đúng đắn “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi” trong tình hình mới, sức mạnh Việt Nam sẽ tiếp tục được tỏa sáng trên trường quốc tế. Đây sẽ là cơ sở vững chắc cho phát huy sức sáng tạo, ý chí và khát vọng phát triển, sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa kết hợp với sức mạnh thời đại để đẩy mạnh phát triển đất nước nhanh và bền vững, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, sớm đưa nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần to lớn thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh,  Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng

Theo Tạp chí Quốc phòng toàn dân (2020)

—————–

Đối ngoại đa phương góp phần đẩy mạnh hội nhập quốc tế, tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất nước

1. Đối ngoại đa phương đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng ngay từ ngày đầu thành lập nước và đã đạt nhiều thành tựu to lớn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thời kỳ 1945-1975, đối ngoại đa phương đã góp phần khẳng định vị thế của một nước Việt Nam độc lập, thống nhất với những quyền dân tộc cơ bản trên trường quốc tế, hình thành mặt trận quốc tế rộng rãi chưa từng có để ủng hộ và hỗ trợ Việt Nam đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Những cuộc đàm phán đa phương với các cường quốc tại Giơ-ne-vơ năm 1954, các vòng đàm phán Pa-ri kéo dài từ năm 1968 đến đầu năm 1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam là những dấu son nổi bật của đối ngoại nước ta nói chung và đối ngoại đa phương nói riêng.

Bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (từ năm 1975 đến nay), đối ngoại đa phương Việt Nam đã trưởng thành mạnh mẽ, triển khai toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, an ninh, kinh tế – phát triển, xã hội và văn hóa, ngày càng tích cực, chủ động, đa dạng về cấp độ, phương thức và đã đạt được những thành tựu to lớn, đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc phá thế bao vây cấm vận, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, duy trì môi trường hòa bình, ổn định, tăng cường và làm sâu sắc hơn các mối quan hệ song phương, nâng cao vị thế đất nước, thu hút mọi nguồn lực phục vụ phát triển đất nước.

Việc nước ta trở thành thành viên của Liên hợp quốc ngày 20-9-1977 có ý nghĩa chính trị – pháp lý quan trọng, khẳng định vị trí đầy đủ của một nước Việt Nam độc lập, thống nhất trên trường quốc tế, mở ra thời kỳ mới cho triển khai hoạt động đối ngoại nói chung và đối ngoại đa phương nói riêng. Ở tầm khu vực, việc gia nhập ASEAN năm 1995 có ý nghĩa mở đường cho tiến trình hội nhập khu vực và đến nay, nước ta đã tham gia hầu hết các cơ chế khu vực then chốt, nổi bật là Diễn đàn hợp tác kinh tế khu vực châu Á – Thái Bình Dương (APEC). Ở tầm liên khu vực, nước ta đã tham gia sáng lập Hội nghị Á – (ASEM) năm 1996, tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao Pháp ngữ năm 1997 và Hội nghị Cấp cao ASEM năm 2004. Việc trở thành thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007 là mốc quan trọng ghi dấu tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta ở quy mô toàn cầu.

Với chủ trương hội nhập quốc tế toàn diện, ta tham gia và đóng góp ngày càng tích cực, chủ động, đa dạng về cấp độ, hình thức, phương thức, đối tác và có nhiều chuyển biến về chất lượng. Năng lực chủ trì, điều hành và vai trò dẫn dắt của Việt Nam ngày càng được khẳng định, đặc biệt với việc đảm nhận thành công các trọng trách quốc tế như Chủ tịch ASEAN năm 2010, thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 – 2009 và chủ nhà Năm APEC 2006 và 2017. Kể từ năm 2014, ta cử lực lượng quân đội tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, đánh dấu một bước nâng tầm hội nhập và đóng góp của ta đối với nỗ lực quốc tế duy trì hòa bình và an ninh thế giới.

Đối ngoại đa phương, nhất là tại các diễn đàn chủ chốt như ASEAN, Liên hợp quốc và phong trào Không liên kết, luôn ở tuyến đầu trong nỗ lực bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, duy trì môi trường hòa bình và ổn định phục vụ phát triển. Việc vận dụng luật pháp quốc tế, chuẩn mực chung và đấu tranh pháp lý, công luận là những công cụ then chốt để thực hiện những mục tiêu đó. Ta cũng bước đầu tham gia hình thành các cơ chế hợp tác, xây dựng luật lệ, chuẩn mực chung, như việc thúc đẩy triển khai Tuyên bố về ứng xử các bên ở Biển Đông (DOC), xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).

Đến nay, nước ta tích cực tham gia một mạng lưới rộng lớn của hầu hết các cơ chế hợp tác, liên kết kinh tế đa phương từ cấp độ toàn cầu (WTO, WB, IMF…), liên khu vực (ASEM, APEC, FEALAC…), khu vực (ASEAN, ADB…) cho đến mạng lưới các hiệp định thương mại tự do với hầu hết các trung tâm kinh tế – thương mại hàng đầu thế giới. Việc ta tham gia mạng lưới liên kết kinh tế đa phương như vậy đã góp từng bước mở cửa, gắn nền kinh tế và thị trường trong nước với khu vực và thế giới, tiếp thu những nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế, thu hút nguồn lực cho phát triển, tạo thêm động lực xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa… Hợp tác đa phương trong các lĩnh vực văn hóa, an sinh xã hội, lao động, thông tin – truyền thông, môi trường, du lịch… ngày càng được mở rộng trên tinh thần áp dụng một cách chọn lọc các tiêu chí, tiêu chuẩn khu vực và quốc tế phù hợp với các điều kiện kinh tế – xã hội của Việt Nam, qua đó giúp hình thành bản sắc văn hóa Việt Nam thời kỳ hội nhập, thúc đẩy tiến bộ xã hội, phát triển thị trường lao động và hệ thống an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo và thực hiện các Mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc… Hội nhập khu vực và quốc tế về khoa học – công nghệ, giáo dục – đào tạo, y tế đóng vai trò quan trọng đối với việc phát triển nền khoa học, giáo dục tiên tiến, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thông tin và y tế quốc gia đáp ứng nhu cầu của người dân, tiến tới thu hẹp khoảng cách phát triển với khu vực và thế giới trong các lĩnh vực này.

Bên cạnh những thành tựu kể trên, việc triển khai công tác đối ngoại đa phương trên thực tế vẫn còn một số hạn chế cần được khắc phục như tư duy, cách tiếp cận trong công tác đối ngoại đa phương chuyển chậm so với chuyển biến của tình hình khu vực, quốc tế và tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta. Mức độ tham gia, tranh thủ hợp tác đa phương của nước ta trên nhiều lĩnh vực còn thấp, không đều, tính chủ động chưa cao, chỉ tập trung vào một số thời điểm, một số lĩnh vực cụ thể, chưa tạo sự lan tỏa; đóng góp, đề xuất sáng kiến còn hạn chế, thiếu đồng bộ. Ta cũng chưa tận dụng đầy đủ những lợi ích mà hợp tác đa phương mang lại đối với công cuộc phát triển kinh tế – xã hội của đất nước; chưa khai thác triệt để thế mạnh của đa phương trong quốc phòng; còn thiếu chủ động trong triển khai, áp dụng và nội luật hóa các cam kết, tiêu chuẩn, luật lệ quốc tế hoặc triển khai theo lộ trình của từng ngành, lĩnh vực nên chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp, thiếu sự gắn kết, gây sự chồng chéo, lãng phí nguồn lực. Đội ngũ cán bộ đa phương thiếu về số lượng, hạn chế về kỹ năng, trình độ; chưa có đội ngũ chuyên gia làm việc tại các tổ chức, diễn đàn đa phương.

2. Thế giới đang bước vào thời kỳ phát triển mới với nhiều chuyển biến sâu rộng. Hòa bình, hợp tác, liên kết và phát triển vẫn là xu thế lớn, cục diện thế giới theo hướng đa cực, đa trung tâm dần được định hình rõ nét, song các thách thức toàn cầu, thách thức phi truyền thống ngày càng gay gắt, diễn biến nhanh, phức tạp, buộc các quốc gia, khu vực phải chung tay cùng giải quyết thông qua các cơ chế hợp tác đa phương, trước hết là Liên hợp quốc. Các thể chế hợp tác đa phương đa lĩnh vực, đa tầng nấc vẫn tiếp tục phát triển, tạo nền tảng quan trọng cho quan hệ quốc tế. Châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, tiếp tục là trung tâm phát triển năng động hàng đầu thế giới, có vị trí địa – kinh tế và địa chính trị chiến lược quan trọng, duy trì vai trò là động lực của tăng trưởng và liên kết kinh tế toàn cầu, một trung tâm chính trị trọng yếu của thế giới. Tuy nhiên, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, thực dụng, cách hành xử đơn phương, chính trị cường quyền… cũng đang có xu hướng quay trở lại mạnh hơn, thách thức vai trò của các thể chế đa phương; đồng thời, một số cơ chế đa phương mới xuất hiện nhằm phục vụ mục tiêu cạnh tranh của các nước lớn, đặt các nước vừa và nhỏ vào thế phải lựa chọn đứng về một phía.

Ở trong nước, Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng định hướng công tác đối ngoại đa phương là “Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc”. Nghị quyết 22-NQ/TW ngày 10-4-2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế cũng nêu rõ nhiệm vụ “chủ động và tích cực tham gia các thể chế đa phương, góp phần xây dựng trật tự chính trị và kinh tế công bằng, dân chủ, ngăn ngừa chiến tranh, xung đột, củng cố hòa bình, đẩy mạnh hợp tác cùng có lợi”. Đối ngoại đa phương Việt Nam đứng trước yêu cầu phải thể hiện tầm vóc toàn diện và sâu rộng so với các thời kỳ trước, chuyển mạnh sang “chủ động đóng góp xây dựng, định hình luật chơi chung”, thể hiện tinh thần “thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, đồng thời tiếp tục nỗ lực hoàn tất các cam kết quốc tế quan trọng như là cam kết gia nhập WTO vào năm 2018, ASEAN 2025, Mục tiêu phát triển bền vững 2030, Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu.

Xuất phát từ tình hình đó, ngày 8-8-2018, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 25-CT/ TW về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030. Đây là văn bản chỉ đạo đầu tiên của Đảng ta về công tác đối ngoại đa phương của đất nước, đưa đối ngoại đa phương thành một nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, là một định hướng chiến lược quan trọng hàng đầu và là một phương thức hiệu quả thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược – xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Chỉ thị 25 xác định mục tiêu cho công tác đối ngoại đa phương thời gian tới là “nỗ lực vươn lên đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt hoặc hòa giải tại các diễn đàn, tổ chức đa phương có tầm quan trọng chiến lược đối với đất nước”, phù hợp với khả năng và điều kiện cụ thể của nước ta. Việc ta vươn lên giữ vai trò quan trọng hơn tại các cơ chế đa phương then chốt sẽ góp phần nâng cao vị thế, tạo điều kiện cho Việt Nam có thể lồng ghép các ưu tiên, thúc đẩy những lợi ích của đất nước. Nhằm thực hiện mục tiêu nêu trên, Chỉ thị đề ra 6 quan điểm chỉ đạo chính và 7 nhóm nhiệm vụ, giải pháp để triển khai đồng bộ các hoạt động đối ngoại đa phương trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, xã hội, môi trường, giáo dục – đào tạo… Các tầng nấc ưu tiên trong triển khai đối ngoại đa phương được xác định là ASEAN, Liên hợp quốc; đặc biệt, với vai trò là khu vực then chốt đối với không gian phát triển của Việt Nam và đang trở thành một trung tâm quyền lực mới của thế giới, các khuôn khổ hợp tác ở châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có hợp tác tiểu vùng cũng được xác định là một tầng nấc ưu tiên trong triển khai công tác đối ngoại đa phương thời gian tới.

Đối ngoại đa phương trong lĩnh vực kinh tế được xác định là trọng tâm ưu tiên để gia tăng sức mạnh tổng hợp của quốc gia. Đẩy mạnh đối ngoại đa phương trong lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh nhằm mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định của quốc gia và khu vực. Chú trọng nâng cao chất lượng đối ngoại đa phương trong các lĩnh vực xã hội, môi trường, giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ, văn hóa, y tế và các lĩnh vực khác. Nâng cao năng lực triển khai công tác đối ngoại đa phương thông qua việc đẩy mạnh đổi mới tư duy, cách tiếp cận, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của đối ngoại đa phương; kiện toàn cơ chế phối hợp, giám sát, đôn đốc trong triển khai đối ngoại đa phương; chủ động đăng cai tổ chức các hoạt động đa phương lớn để nâng cao vị thế, thúc đẩy hợp tác và quảng bá hình ảnh đất nước.

Trong thời gian tới, Bộ Ngoại giao sẽ chủ trì xây dựng Đề án tổng thể về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030 nhằm cụ thể hóa các mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và nhóm giải pháp được xác định trong Chỉ thị 25, xác định các trọng tâm và biện pháp triển khai theo từng giai đoạn cụ thể, đồng thời theo dõi, đôn đốc, kiểm tra và định kỳ báo cáo Ban Bí thư, bảo đảm tính thống nhất trong chỉ đạo và điều hành hoạt động đối ngoại đa phương. Các cấp, các ngành cần xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện phù hợp với tình hình của ngành, địa phương, cơ quan mình và chủ động phối hợp chặt chẽ trong triển khai công tác đối ngoại đa phương, tạo sức mạnh tổng hợp và đạt hiệu quả cao./.

Lê Hoài Trung, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao

Theo Tạp chí Tuyên giáo số 2/2019

—————-

Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, tạo môi trường hòa bình và điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước

Tham luận của đồng chí Bùi Thanh Sơn, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao tại Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XIII của Đảng

Kính thưa Đoàn Chủ tịch,

Kính thưa Đại hội,

Thay mặt Ban cán sự Đảng Bộ Ngoại giao, tôi xin bày tỏ sự nhất trí cao với các văn kiện trình Đại hội. Các văn kiện đã kết tinh được trí tuệ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, khơi dậy khát vọng của toàn dân tộc vững bước tiến lên trong thời kỳ chiến lược mới. Với tinh thần đó, tôi xin trình bày tóm tắt tham luận, làm rõ hơn một số nội dung về đối ngoại trong văn kiện.

1. Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XIII của Đảng diễn ra trong bối cảnh công cuộc Đổi mới 35 năm qua và nhiệm kỳ 5 năm qua đã và đang làm thay đổi căn bản diện mạo của đất nước, của từng ngành, từng địa phương, từng doanh nghiệp. Hội nhập ngày càng sâu rộng trong một thế giới thay đổi nhanh chóng, phức tạp, song đất nước ta vẫn giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị xã hội, kinh tế phát triển năng động, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và là nhân tố tích cực đóng góp vào hòa bình, ổn định và hợp tác ở khu vực và trên thế giới.

Lời khẳng định của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay là một thực tế đã được thế giới thừa nhận. Từ một nền kinh tế lạc hậu, xếp hạng cuối trong số các quốc gia Đông Nam Á, nay Việt Nam đã vươn lên trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 trong ASEAN với GDP ở mức hơn 340 tỷ USD, giá trị thương hiệu quốc gia hiện đứng ở vị trí thứ 33 trong Top 100 thương hiệu quốc gia giá trị nhất thế giới, chỉ số ảnh hưởng ngoại giao đứng thứ 9/26 ở khu vực Châu Á và đứng thứ 2 trong Đông Nam Á.

2. Trong những thành tựu đó, đối ngoại Việt Nam, trên cơ sở kết hợp nhuần nhuyễn giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, đã có những đóng góp quan trọng. Nhiệm kỳ qua, mặc dù đứng trước những khó khăn, thách thức to lớn, gần đây là đại dịch Covid-19 và suy thoái kinh tế toàn cầu, cạnh tranh chiến lược gay gắt giữa các nước lớn, các vấn đề an ninh nổi lên phức tạp, đối ngoại đã phát huy bản lĩnh vượt khó, triển khai linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả nhiệm vụ, cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại Đại hội XII. Cụ thể:

Một là, đối ngoại đã góp phần quan trọng vào duy trì môi trường hòa bình, ổn định, giữ vững an ninh quốc giaVới việc thiết lập quan hệ Đối tác toàn diện thêm với 5 nước và nâng cấp lên Đối tác chiến lược với 2 nước, chúng ta đã xây dựng được mạng lưới 17 Đối tác chiến lược và 13 Đối tác toàn diện, trong đó có toàn bộ các nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và các nước thành viên ASEAN, mạng lưới bạn bè và đối tác quan trọng ngày càng được mở rộng, hợp tác ngày càng hiệu quả.

Đối ngoại đã phối hợp chặt chẽ với quốc phòng, an ninh bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo Tổ quốc. Trước những diễn biến phức tạp của tình hình Biển Đông, chúng ta đã phát huy được ngọn cờ chính nghĩa, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, phản đối các hành động xâm phạm đơn phương, thúc đẩy xu thế giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế, đồng thời duy trì được ổn định quan hệ với các nước láng giềng liên quan.

Về biên giới trên bộ, với việc phê chuẩn 2 văn kiện pháp lý ghi nhận 84% thành quả phân giới, cắm mốc với Campuchia, phối hợp quản lý tốt biên giới với Lào và Trung Quốc, chúng ta đã xây dựng, củng cố đường biên giới trên bộ hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển với tất cả các nước láng giềng, bảo đảm vành đai an ninh vững chắc cho đất nước.

Hai là, công tác đối ngoại đã góp phần thu hút nguồn ngoại lực to lớn cho phát triển kinh tế – xã hội và công cuộc đổi mới. Với 5 hiệp định thương mại tự do được thiết lập, trong đó có cả các thỏa thuận thế hệ mới, tiêu chuẩn cao với các đối tác chủ chốt, Việt Nam trở thành tâm điểm của mạng lưới 16 FTA khu vực. Công tác tham mưu, nghiên cứu, xúc tiến các vấn đề kinh tế được đẩy mạnh, gắn sát với việc triển khai 3 đột phá chiến lược; đồng thời xử lý thỏa đáng các vấn đề nảy sinh trong quan hệ kinh tế – thương mại với các đối tác. Các hoạt động ngoại giao kinh tế đã bám sát nhu cầu, hỗ trợ tích cực cho doanh nghiệp và địa phương kết nối, mở rộng hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, lao động, du lịch, khoa học công nghệ, góp phần đáng kể vào những thành tựu phát triển kinh tế của đất nước nhiệm kỳ qua.

Công tác bảo hộ công dân và công tác người Việt Nam ở nước ngoài tiếp tục được triển khai hiệu quả. Nhiệm kỳ qua, đã bảo hộ trên 50.000 công dân, gần 10.000 ngư dân; riêng trong năm 2020 đã phối hợp tổ chức đưa khoảng 80.000 công dân Việt Nam từ hơn 60 quốc gia/vùng lãnh thổ về nước an toàn trong đại dịch Covid-19. Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng gắn bó với quê hương, thêm tin tưởng vào chính sách của Đảng và Nhà nước, tích cực đóng góp nguồn lực kinh tế và tri thức cho phát triển đất nước; gửi về gần 90 tỷ USD kiều hối trong giai đoạn 2016-2020.

Ba là, công tác đối ngoại đã góp phần quan trọng vào nâng cao vị thế đất nước. Đối ngoại đa phương chuyển mạnh từ tham gia sang chủ động, tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế khu vực, toàn cầu; tạo được dấu ấn quan trọng trong đảm nhiệm các trọng trách quốc tế: Chủ nhà Năm APEC 2017, WEF-ASEAN 2018, Diễn đàn Liên minh Nghị viện Châu Á – Thái Bình Dương 26 (2018), Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ – Triều 2019, và đặc biệt hoàn thành xuất sắc vai trò Chủ tịch ASEAN và AIPA 2020, Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021; qua đó gia tăng uy tín và vị thế đất nước, được bạn bè quốc tế đánh giá cao.

Công tác ngoại giao văn hóa, thông tin đối ngoại được đổi mới cả nội dung và hình thức, quảng bá ngày càng hữu hiệu về đất nước, con người, thương hiệu, đặc sản vùng miền, địa phương và những thành tựu của Việt Nam với thế giới.

Một là luôn kiên định với đường lối độc lập, tự chủ, đa phương hóa đa dạng hóa và hội nhập quốc tế. Độc lập, tự chủ cần tiếp tục là nền tảng, là cơ sở, là điều kiện tiên quyết cho hội nhập quốc tế thành công. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa sẽ góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia, giữ vững độc lập tự chủ của đất nước.

Hai là “Kiên trì về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược”, kết hợp nhuần nhuyễn, biến hóa, sáng tạo giữa chiến lược và chiến thuật trên tinh thần “dĩ bất biến ứng vạn biến” để bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trong một môi trường quốc tế biến động không ngừng.

Ba là kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại nhằm tranh thủ tối đa ngoại lực, tạo sức mạnh cộng hưởng cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Muốn làm được như vậy, cần “nhìn cho rộng, suy cho kĩ”, đánh giá đúng tình hình, nắm bắt kịp thời các xu thế và cơ hội, hiểu đúng và vận dụng phù hợp sức mạnh nội tại của đất nước.

4. Giai đoạn chiến lược sắp tới được dự báo sẽ đầy biến động, thậm chí với những thay đổi sâu sắc mang tính bước ngoặt, mang lại cả cơ hội và thách thức với đất nước ta. Điều này đòi hỏi đối ngoại phải nâng cao hơn nữa năng lực, tính nhạy bén, tốc độ, linh hoạt và khả năng phối hợp liên ngành trong triển khai nhiệm vụ.

5. Trước tình hình đó, đối ngoại thời gian tới phải thực hiện tốt lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1964: “Muốn làm gì cũng vì lợi ích dân tộc, phải luôn luôn vì lợi ích dân tộc mà phục vụ và nhà ngoại giao phải khôn khéo để lợi ích đó được đảm bảo”. Theo đó, đối ngoại phải phát huy vai trò tiên phong trong việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; kiến tạo mọi điều kiện, huy động mọi nguồn lực, và tranh thủ mọi cơ hội để phục vụ sự nghiệp phát triển và nâng cao vị thế của đất nước.

6. Để làm được như vậy, xin kiến nghị một số nhiệm vụ trọng tâm như sau:

Một là, tiếp tục đưa vào chiều sâu, tăng cường đan xen lợi ích và tin cậy chính trị với 30 Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện. Trong đó, đặt phát triển vào vị trí trọng tâm của các mối quan hệ và lấy Châu Á-Thái Bình Dương là địa bàn trọng điểm chiến lược; đồng thời thúc đẩy quan hệ với các đối tác tiềm năng ở các khu vực khác.

Hai là, đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng và nâng tầm đối ngoại đa phương; tham gia tích cực hơn vào định hình các thể chế đa phương như ASEAN, Liên hợp quốc, hợp tác Mê Công…; kiên trì thúc đẩy chủ nghĩa đa phương và luật pháp quốc tế; chủ động đề xuất các sáng kiến thiết thực, phù hợp với khả năng, lợi ích của đất nước và quan tâm của cộng đồng quốc tế.

Ba là, triển khai mạnh mẽ, đồng bộ và sáng tạo hơn nữa công tác ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển, tích cực nắm bắt các cơ hội to lớn về khoa học công nghệ, giáo dục – đào tạo, chuyển đổi số, phát triển xanh… Trên tinh thần “đồng hành”, “phục vụ”, Bộ Ngoại giao, với mạng lưới 94 cơ quan đại diện ở nước ngoài, sẽ luôn là nhà, là địa chỉ thân thiết, tin cậy, là nơi kết nối các cơ hội hợp tác của các địa phương, doanh nghiệp và người dân Việt Nam ở nước ngoài.

Bốn là, đối ngoại kết hợp chặt chẽ với quốc phòng, an ninh, giữa Đối ngoại Đảng, Ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, để tạo thế chân kiềng vững chắc, kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”; chủ động phòng ngừa và hóa giải các nguy cơ an ninh thông qua thúc đẩy đối thoại, xây dựng lòng tin, ngoại giao phòng ngừa và thượng tôn pháp luật.

Năm là, đối ngoại góp phần tích cực xây dựng và quảng bá hình ảnh đất nước Việt Nam với 44 danh hiệu và di sản thế giới được UNESCO công nhận, có nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, con người yêu chuộng hòa bình, năng động và có ý chí vươn lên mạnh mẽ; qua đó thu hút đầu tư, du lịch, giao thương, thúc đẩy phát triển bền vững ở địa phương và đất nước nói chung. Đối ngoại cũng sẽ là cầu nối vững chắc để gắn kết cộng đồng 5,3 triệu người Việt Nam ở nước ngoài với quê hương, huy động nguồn lực to lớn của kiều bào đóng góp cho quá trình phát triển và hội nhập của đất nước.

Để triển khai thành công những nhiệm vụ chiến lược này, cần tập trung xây dựng một nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, trong đó trọng tâm là phát triển đội ngũ cán bộ đối ngoại có bản lĩnh chính trị vững vàng, nắm vững chuyên môn, thông thạo kỹ năng, ngày càng chuyên nghiệp, sáng tạo và năng động thích ứng với tình hình.

Kính thưa Đại hội,

7. Đất nước ta đang bước vào giai đoạn chuyển mình quan trọng, hướng tới khát vọng và các mục tiêu phát triển mạnh mẽ, vươn lên sánh vai với các cường quốc năm châu. Với niềm tin vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự quyết tâm, đồng hành của toàn bộ hệ thống chính trị, ngành ngoại giao sẽ phấn đấu cao nhất, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó, góp phần hiện thực hóa thành công mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, xây dựng một nước Việt Nam hạnh phúc, phồn vinh, có vị thế, uy tín cao trên trường quốc tế.

Xin kính chúc sức khỏe các đồng chí Lãnh đạo và các vị Đại biểu.

Kính chúc Đại hội thành công tốt đẹp.

Xin trân trọng cảm ơn./.

Theo Báo Quốc  tế (2021)