Nguồn: Battle of Jutland, greatest naval battle of WWI, begins, History.com
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Vào ngày này năm 1916, ngay trước 4 giờ chiều, một lực lượng thuộc Hải quân Anh được chỉ huy bởi Phó Đô đốc David Beatty đã đụng độ với một hạm đội tàu Đức dưới quyền Đô đốc Franz von Hipper, khoảng 75 dặm ngoài khơi bờ biển Đan Mạch. Hai bên đồng loạt nổ súng vào nhau, bắt đầu giai đoạn mở đầu của trận hải chiến lớn nhất trong Thế chiến I, Trận Jutland.
Sau trận Dogger Bank vào tháng 01/1915, Hải quân Đức đã quyết định không đối đầu trực diện với Hải quân Hoàng gia Anh vượt trội về quân số suốt hơn một năm, chuyển hướng phần lớn chiến lược trên biển vào các tàu ngầm U-Boat nguy hiểm của mình. Tuy nhiên, vào tháng 05/1916, khi phần lớn Hạm đội Grand của Anh đang neo đậu ở xa tại Scapa Flow, ngoài khơi bờ biển phía bắc Scotland, chỉ huy của Hạm đội Biển khơi Đức, Phó Đô đốc Reinhard Scheer, tin rằng đã đến lúc phải tiếp tục các cuộc tấn công vào bờ biển Anh.
Tự tin rằng thông tin liên lạc của mình được mã hóa an toàn, Scheer đã ra lệnh cho 19 tàu ngầm U-Boat di chuyển vào vị trí để chuẩn bị đột kích vào thành phố Sunderland ven Biển Bắc, đồng thời sử dụng trinh sát trên không để theo dõi chuyển động của hạm đội Anh ở Scapa Flow. Tuy nhiên, thời tiết xấu đã cản trở hoạt động của tàu, và Scheer đã ngừng cuộc đột kích, thay vào đó, ra lệnh cho hạm đội của mình – gồm 24 tàu chiến, 5 tàu tuần dương, 11 tàu tuần dương hạng nhẹ và 63 tàu khu trục – hướng về phía bắc, đến Skagerrak, một tuyến đường thủy nằm giữa Na Uy và phía bắc Đan Mạch, ngoài khơi Bán đảo Jutland, nơi họ có thể tấn công vào các tàu vận chuyển của quân Hiệp Ước, và nếu may mắn, sẽ đục được một lỗ hổng trong dải phong tỏa nghiêm ngặt của Anh.
Tuy nhiên, điều Scheer không biết là một đơn vị tình báo mới được thành lập, với trụ sở nằm trong một tòa nhà cũ của Bộ Hải quân Anh, được gọi là Phòng 40 (Room 40), đã giải được mật mã của Đức và cảnh báo chỉ huy của Hạm đội Grand, Đô đốc John Rushworth Jellicoe, về ý định của Scheer. Do đó, vào đêm 30/05, một hạm đội gồm 28 tàu chiến, 9 tàu tuần dương chiến đấu, 34 tàu tuần dương hạng nhẹ và 80 tàu khu trục đã xuất phát từ Scapa Flow, đi đến các vị trí ngoài khơi Skagerrak.
Lúc 2:20 chiều ngày 31/05, Beatty, dẫn đầu một hạm đội của Anh, đã phát hiện ra tàu chiến của Hipper. Khi các hạm đội được điều động về phía nam để điều chỉnh vị trí của mình, các phát súng lẻ đã được bắn ra, nhưng không bên nào thực sự nổ súng cho đến 3:48 chiều hôm đó. Giai đoạn ban đầu của cuộc đấu súng kéo dài 55 phút, trong đó hai tàu tuần dương chiến đấu của Anh, chiếc Indefatigable và Queen Mary, đã bị phá hủy, giết chết hơn 2.000 thủy thủ. Vào lúc 4:43 chiều, hạm đội Hipper đã được hỗ trợ bởi phần còn lại của hạm đội Đức, do Scheer chỉ huy. Beatty buộc phải chiến đấu tìm cách trì hoãn trong một giờ tiếp theo, cho đến khi Jellicoe có thể đến mang theo phần còn lại của Hạm đội Grand.
Khi cả hai hạm đội cuối cùng cũng đối mặt, một trận chiến lớn về chiến lược hải quân đã bắt đầu giữa bốn vị chỉ huy, đặc biệt là giữa Jellicoe và Scheer. Khi các bộ phận thuộc hai hạm đội tiếp tục giao chiến với nhau đến tận tối muộn và rạng sáng ngày 01/06, Jellicoe đã điều động 96 tàu Anh xếp thành hình chữ V bao quanh 59 tàu Đức. Tàu chiến chở Hipper, chiếc Lutzow, đã bị vô hiệu hóa sau 24 phát súng, nhưng trước khi nó chìm, con tàu vẫn đủ sức đánh chìm tàu tuần dương chiến đấu của Anh, chiếc Invincible. Khoảng 6:30 tối ngày 01/06, hạm đội của Scheer tiến hành cuộc rút lui đã được lên kế hoạch trước đó, nhờ đêm tối, họ đã trở về được căn cứ tại cảng Wilhelmshaven của Đức, kết thúc trận chiến, đồng thời đánh lừa người Anh về một chiến thắng hải quân lớn mà Đức lầm tưởng.
Trận Jutland, hay Trận Skagerrak theo cách gọi của người Đức, đã có sự tham gia của tổng cộng 100.000 người trên 250 tàu trong suốt 72 giờ. Người Đức, vui mừng vì nước đi rút quân thành công của Scheer, đã tuyên bố đây là một chiến thắng cho Hạm đội Biển khơi của họ. Lúc đầu báo chí Anh đồng ý, nhưng sự thật khi ấy vẫn chưa rõ ràng.
Hải quân Đức đã mất 11 tàu, bao gồm 1 tàu chiến và 1 tàu tuần dương chiến đấu, cùng với 3.058 thương vong; phía Anh đã chịu tổn thất nặng nề, với 14 tàu bị chìm, trong đó có 3 tàu tuần dương chiến đấu, và con số thương vong là 6.784. Tuy nhiên, 10 tàu khác của Đức cũng bị thiệt hại nặng nề, tính đến ngày 02/06/1916, chỉ có 10 tàu từng tham gia trận chiến vẫn sẵn sàng rời cảng một lần nữa (trong khi đó Jellicoe có 23 tàu).
Ngày 04/07/1916, Scheer đã báo cáo với bộ chỉ huy cấp cao của Đức rằng tiến hành các hoạt động tiếp theo của hạm đội không còn là một lựa chọn và chiến tranh tàu ngầm là niềm hy vọng tốt nhất cho chiến thắng trên biển của Đức.
Bất chấp những cơ hội bị bỏ lỡ và tổn thất nặng nề, Trận Jutland đã chứng minh ưu thế của Hải quân Anh trên Biển Bắc. Hạm đội Biển khơi của Đức không còn tiến hành nỗ lực nào khác để phá vỡ sự phong tỏa của quân Hiệp Ước, và không dám đối đầu trực diện với Hạm đội Grand trong phần còn lại của Thế chiến I.