Đại Việt dưới thời Vua Lê Thái Tông (P2)

Tác giả: Hồ Bạch Thảo

Nhân lễ tết Nguyên Đán, năm Thiệu Bình thứ 2, nhà Vua dẫn các quan bái yết Thái miếu, rồi thiết triều:

Năm Ất Mão, Thiệu Bình thứ 2, tháng Giêng, ngày mồng 1 [29/1/1435], vua dẫn các quan tới bái yết Thái miếu. Khi về cung, mặc áo trắng coi chầu, nhạc nổi lên, quan hầu thét cảnh giới, các quan đều mặc cát phục trắng an ủi.” Toàn Thư, Bản Kỷ, Quyển 11, trang 20b.

Ngày mồng 3 tháng Giêng, tại Trung Quốc, Vua Tuyên Tông mất, Vua Anh Tông lên ngôi; đến ngày 15 tháng 5, gửi chiếu dụ báo tin cho An Nam:

Ngày mồng 3 [31/1/1435], Tuyên Tông nhà Minh băng. Hoàng thái tử Kỳ Trấn lên ngôi, tức là Anh Tông, đổi niên hiệu là Chính Thống.” Toàn Thư, Bản Kỷ, Quyển 11, trang 20b.

Ngày 15 tháng 5 năm Tuyên Đức thứ 10 [ 11/6/1435]. Chiếu dụ Quốc vương An Nam:

“Hoàng khảo ta dùng đức chí nhân để thống trị cơ nghiệp lớn, noi theo hiến chuơng, khôi phục hoằng dương chính hóa, làm cho quốc gia được vĩnh viễn hạnh phúc thái bình. Bất hạnh vào ngày mồng 3 tháng Giêng năm nay về chầu trời, di mệnh ta nối đại thống, lên ngôi Hoàng đế vào ngày 10 [7/2/1435], tuyên bố rằng năm sau là năm Chính Thống thứ nhất; mệnh đại xá thiên hạ, tất cả đều được đổi mới. Nay ban chiếu để hay biết.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 3, trang 6)
Ngày mồng 4 [1/2/1435], Vua Ai Lao sai bề tôi đến cống:

Vua Ai Lao là Dụ Quần sai bầy tôi là bọn San Mạc, Nại Mẫu đến dâng lễ cống: đồ uống rượu bằng vàng bạc và voi.” Cương Mục, Chính Biên, quyển 16.

Ra lệnh cho quân các đạo, cùng Ngự tiền tại kinh đô thi tập võ nghệ; riêng duyệt thủy chiến tại sông Nhị Hà, Vua đích thân ngự xem:

Ra lệnh cho quân các đạo đến những nơi gần gũi, thuận tiện trong đạo mình, chia quân tập trận; các quân ngự tiền thi tập võ nghệ ở điện đình.

Vua ngự đến Cảo Động xem các vệ quân năm đạo diễn tập đánh bộ, lại duyệt thủy chiến ở sông Nhị.” Toàn Thư, Bản Kỷ, Quyển 11, trang 21b.

Các quan đặc trách về can gián thấy Vua ham chơi lười học, bèn liều chết dâng sớ khuyên 6 điều; Vua giận, nhưng cuối cùng tỏ vẻ phục thiện:

Ngày 21[18/2/1435], Ngôn quan là bọn Phan Thiên Tước, Lương Thiên Phúc, Nguyễn Chiêu Phủ dâng sớ nói:

 “Tiên đế dầm mưa dãi gió, mình mang giáp trụ, lao thân khổ trí, hơn mười năm trời mới dẹp yên thiên hạ. Bệ hạ kế thừa cơ nghiệp đã có sẵn rồi, nên lưu ý tới học thuật, năng tìm nhân tài để lo trị nước thành công. Nay đại thần tiến cử Thiếu bảo hữu bật vào hầu giảng sách, bệ hạ đứng dậy bỏ đi không nghe, thế là một điều không nên. Tiên đế chọn người làm bảo mẫu, làm thầy để vâng mệnh dạy bảo trong cung, bệ hạ khinh rẽ, mắng chửi mà không nghe, thế là hai điều không nên. Đến như thần phi, huệ phi là bậc dì, vào cung răn dạy, thì bệ hạ sai đóng cửa trước mà không cho vào, thế là ba điều không nên. Người quản lĩnh thị vệ thấy bệ hạ không đọc sách mà cầm cung bắn chim, có khi can ngăn, thì bệ hạ không nghe, lại lấy cung bắn người ấy, thế là bốn điều không nên. Tiên đế lựa chọn con em công thần sai vào hầu bệ hạ đọc sách thì bệ hạ đều xa lánh họ mà nô đùa với bọn hầu hạ gần gũi ở trong cung, thế là năm điều không nên. Người làm vua phải tìm người tài giỏi biết nói thẳng, hết lời can ngăn và những người có công lao mà thưởng họ, nay bệ hạ lại vui đùa với bọn hoạn quan nói rồi thưởng cho chúng, thế là sáu điều không nên. Thần chờ tội ở chức trách ăn nói, dám đâu không trình bày, xin bệ hạ trong khi coi chầu, hoặc tiếp xúc với các vị đại thần, hoặc nghe các quan tâu việc, phải ngay ngắn, trang nghiêm, lấy dung nghi cung kính của Thiên tử mà kính trọng bậc đại thần, úy lạo người có công, nghe lời nói thẳng, mở đường cho người nói thẳng để thấu hiểu tình hình bên dưới, thì lời khen “bậc đại hiếu biết nối chí kế nghiệp” không chỉ chuyên để khen Thành Vương, Thái Giáp[1] mà thôi”.

 Vua xem sớ giận lắm, vặn hỏi. Bọn tả hữu học Lê Cảnh Xước và hoạn quan Đinh Hối đi khắp nhà bọn Thiên Tước chất vấn, bắt nói tên người tố ra các việc nói trong sớ và trách mắng bọn họ. Thiên Tước trả lời:

“Những điều đó do Đồng tổng quản Bắc Giang hạ vệ Lê Lãnh nói với thần đấy. Bọn thần cốt sao yêu vua, làm hết chức trách mà thôi, dù chết cũng không sợ”.

Bọn Cảnh Xước mới thôi.

 Hôm sau, Thiên Tước vào chầu, tâu rằng:

“Ngu Thuấn là bậc thánh nhân mà Bá Ích còn lấy sự chơi bời lười biếng để khuyên răn, Đường Thái Tông là bậc vua hiền, mà Ngụy Trưng vẫn đem mười điều thấm dần[2] mà phòng giữ. Bọn thần tủi nhục giữ chức ăn nói, chỉ sợ nhà vua có lỗi lầm, nên hết lòng ngu dại khuyên can. Bệ hạ nhận cho thì dẫu kẻ kiếm củi, làm nghề, cũng đều trổ hết khả năng mà thánh đức của bệ hạ càng thêm ngời sáng vậy”.

Vua nguôi giận, bọn Thiên Tước lại giữ chức cũ.” Toàn Thư, Bản Kỷ, Quyển 11, trang 21b.

Vào tháng 10 năm ngoái [10/11/1434] Vua Tuyên Tông sai bọn Chương Xưởng mang chiếu chỉ sang phong, vào tháng 2 năm nay [3/1435] đến nước ta:

Tháng 2, nhà Minh sai Lễ bộ hữu thị lang Chương Xưởng, Hành nhân ty hành nhân Hầu Tấn đi theo Nguyễn Tông Trụ sang trao sắc mệnh cho vua quyền coi việc nước.” Toàn Thư, Bản Kỷ, Quyển 11, trang 23b.

Nhân dịp nhà Vua được phong Quyền coi việc nước, bèn làm lễ tế cáo Thái miếu, và sai Sứ mang sản vật địa phương sang nhà Minh tạ ơn:

Ngày Đinh Mùi mồng 5 [4/3/1435], sai Thiếu bảo Lê Quốc Hưng làm lễ tế tiên sư Khổng Tử, từ đấy về sau coi là thường lệ.

Ngày Mậu Thân [5/3/1435], tế xã tắc. Sai quản lĩnh Phan Tử Viết và đại phu Trình Nguyên Hy mang tờ biểu và phương vật đi theo bọn Xưởng sang tạ ơn nhà Minh.

Ngày mồng 8 [7/3/1435], làm lễ cáo Thái miếu vì có lệnh để vua quyền coi việc nước. Sai các quan đi tế khắp các thần kỳ trong nước có ghi trong tự điển.”[3] Toàn Thư, Bản Kỷ, Quyển 11, trang 23b.

Cũng vào ngày mồng 8 tháng 2 [7/3/1435], định thuế ruộng đất các loại, qui định tên húy; phạt đày 2 viên Sứ thần can tội giao thiệp riêng với người nước ngoài, tức giận đánh lẫn nhau, làm nhục quốc thể:

Định các ngạch thuế ruộng đất, đầm ao, bãi dâu. Ban tên húy của quốc triều. Khi gặp chữ chính về miếu húy, ngự danh thì không được viết. Ai có họ tên trùng với các chữ húy thì phải đổi, như tên húy của Cung Từ quốc thái mẫu là Trần, cho nên đổi họ Trần thành Trình.

Đày Thái Quân Thực ra châu xa, Nguyễn Tông Trụ ra châu gần. Hai người này khi vâng lệnh sang sứ nhà Minh, hữu ty làm giấy tờ, theo thứ tự trước sau, ghi Tông Trụ là bồi thần,[4] Quân Thực là kỳ lão. Quân Thực có ý bất bình. Khi đến nước Minh, chiếu theo thứ bậc để ban áo, thì áo của Quân Thực không có hoa văn kim tuyến, trong lòng hậm hực bảo người phương Bắc rằng:

‘Ta là quan tứ phẩm lại ở dưới Tông Trụ là làm sai’.

 Đến khi dự yến, Thực không mặc áo được ban, mà mặc áo dệt kim tuyến của mình vào dự. Thực còn đem bản tâu do thừa chỉ Tham tri Nguyễn Trãi soạn ra mà chửi bới, lại chửi luôn cả Tham tri Đông đạo Đào Công Soạn, vì ông này đã cử Tông Trụ cùng đi với mình. Tông Trụ cũng giận dữ tranh cãi không ngớt, đến nỗi hai người đánh lộn lẫn nhau, Tông Trụ bị vỡ mặt, người đi theo can ngăn cũng không được. Hai người lại kiện nhau ở Hồng lô tự[5] nói xấu lẫn nhau. Tông Trụ còn lén tới nhà viên nội quan của Bắc triều ở Long Châu[6] nhận lễ vật tặng, lại nói với viên quan đi tiễn của Long Châu là Lã Hồi về chuyện khi đi sứ Ai Lao nói vụng Tiên đế nghe gièm giết bậy. Hai người này đều vì tội đi sứ mà giao thiệp với người nước ngoài, tức giận mà đánh lẫn nhau, làm nhục cả quốc thể, đáng phải xử tử. Nhưng vì đã từng có công, nên tùy theo tội nặng hay nhẹ, đều xử tội đi đày. Tông Trụ lại đem nhiều tiền lụa sang mua hàng phương Bắc, vua ghét Trụ vi phạm lệnh cấm mà làm tiền, liền lấy hết hành trang chia cho các quan.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 23b.

Ngày mồng 6 tháng 3, đúc xong 6 ấn báu, đặt tên, và qui định trường hợp dùng:

Tháng 3, ngày mồng 6 [4/4/1435], đúc xong ấn báu. Sai bọn Hữu bật Lê Văn Linh đến Thái miếu làm lễ tế cáo. Cả 6 ấn đều đúc bằng vàng bạc. Ấn “Thuận thiên thừa vận chi bảo” thì cất đi không dùng, chờ khi nào truyền ngôi mới dùng. Ấn “Đại thiên hành hóa chi bảo” thì dùng khi ban chiếu chế. Ấn “Sắc mệnh chi bảo” thì dùng khi có sắc dụ và hiệu lệnh thưởng phạt cùng các việc lớn. Ấn “Ngự tiền tiểu bảo” thì dùng khi có việc cơ mật. Nhưng chính sự thì vẫn dùng ấn bằng ngà, chưa dùng đến các ấn mới đúc.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 24b.

Trong tháng 3 [4/1435] các xứ Lạng sơn, Hải Dương bị dịch. Đặt quan Phòng ngự sứ để trông coi các Mường tại Ai Lao. Xứ La La Tư thuộc Vân Nam và Quang Châu thuộc phủ Quảng Nam tại phía đông Vân Nam đến cống:

Dân các lộ Lạng Sơn, Nam Sách [Hải Dương] đều bị bệnh dịch.

 Lấy Ngự tiền trung quân thiết đột Lê Đẳng làm Phòng ngự sứ coi việc quân dân các xứ Phọc La, Trình Song, Mường Dương thượng và hạ của Ai Lao; Lê Thiên làm phòng ngự sứ coi việc quân dân các châu Nam Mã, Tàm Thượng, Tàm Hạ[7] huyện Lan Hòa. Bấy giờ các mường của Ai Lao, tuy ngoài mặt nói là quy thuận nước ta, nhưng vẫn giáo giở bất thường, nên triều đình phải đặt quan ở những nơi đó để trông coi.

Người nước La La Tư Điện[8] sang cống. Nước La La Tư ở phía bắc Ai Lễ, giáp với Vân Nam, ăn mặc theo tục Vân Nam, khi lạy tạ, đều tự nói tiếng nước họ.

Người Quang Châu thuộc phủ Quảng Nam đến dâng ngựa.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 25b.

Vào tháng 7 năm trước [8/1434] bọn Sứ thần Lê Bính sang nhà Minh cảm ơn điếu tế Vua Lê Thái Tổ, tháng 3 này đến nơi được Vua Anh Tông ban quà:

Ngày 13 tháng 3 năm Tuyên Đức thứ 10 [ 11/4/1435]. Nước An Nam sai bọn Bồi thần Lê Bính, Quốc vương Mãn Thứ Gia[9] Tây Lý Ma Linh Thứ sai em là Thứ Ðiện Bả Thứ, Trung thuận vương Cáp Mật[10] Bốc Ðáp Thất Lý sai Sứ thần Linh Mi Tư đến cống lạc đà, ngựa, sản vật địa phương, khí mãnh. Ban cho các vật như lụa là, có phân biệt.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 3, trang 6)

Vào tháng 4 [5/1435], các Mường tại nước Ai Lao đến cống; lúa có sâu keo, bèn ra lệnh các quan địa phương cúng bái:

Mùa hạ, tháng 4, bọn Mường Qua[11] nước Ai Lao sang cống. Mường Tàm[12] dâng 1 con voi.

Ra lệnh cho các quan lộ, huyện, xã rằng: Nếu thấy chỗ nào có sâu ăn hại mầm dâu thì phải cúng lễ để trừ hại cho dân.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 26b.

Tháng 5, lại lưu ý nghề nông hiện đúng mùa làm ruộng, phải thận trọng việc điều động sức dân:

Ra lệnh chỉ cho tướng hiệu các đạo và các lộ, huyện, trấn rằng: Hiện đang mùa làm ruộng, các quan lộ, huyện, trấn không được khinh suất điều động sức dân.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 26b.

Tháng 6, ra lệnh quan quân thuộc 5 đạo trong nước lưu ý sửa chữa vũ khí. Ngoài ra nhà Vua vẫn tiếp tục vui đùa lười học; các quan đặc trách về can gián như Phan Thiên Tước lại phải khuyên can:

Tháng 6, ngày mồng 4 [29/6/1435], ra lệnh cho bọn tướng hiệu các vệ quân năm đạo đều phải sai người sửa chữa những chiến khí bị mối mọt hỏng nát.

Vua hằng ngày vui đùa với bọn hầu cận ở trong cung, các đại thần muốn khuyên vua học, cùng nhau tâu lên xin cử sáu văn thần là bọn Hành khiển thừa chỉ Nguyễn Trãi, Trung thư thị lang Trình Thuấn Du… đi theo hai, ba đại thần chia phiên nhau vào hầu kinh diên. Vua sai Đinh Phúc trả lại tờ tâu không nhận. Vua yêu dùng hoạn quan Nguyễn Cung. Bọn Lê Sát xin giết đi, vua không nghe. Thế là bọn Sát cáo ốm không vào chầu.

 Bọn Thiên Tước tâu rằng: “Bậc sinh trị[13] không ai bằng Nghiêu Thuấn mà còn dùng Quân Trù, Thành Chiêu làm thầy. Các đế vương đời xưa, sở dĩ thánh đức ngày một tăng lên, chưa có bậc nào là không do học vấn. Huống chi bệ hạ đương lúc tuổi còn trẻ, chưa biết được mọi đạo trị nước xưa nay. Đại tư đồ Lê Sát chọn dùng nho thần vào hầu bên trên, là có ý muốn bệ hạ được như vua Nghiêu vua Thuấn mà thôi, sao bệ hạ coi nhẹ tông miếu xã tắc, không thấy lòng trung thành của họ, để cho họ lo buồn mà không vào chầu? Xin bệ hạ nghĩ đến ý ký thác của Tiên đế, thì thiên hạ được đội phúc mà bệ hạ được hưởng lộc thọ của bậc đại hiếu“. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 27a.

Tháng 7, người nước Ai Lao làm phản, bị dân địa phương đánh dẹp, rồi tâu cáo lên. Triều đình thưởng các quan làm việc lâu năm siêng năng, cùng kiểm tra khắp nước, bắt xét 53 người can tội tham ô:

Mùa thu, tháng 7, ngày mồng 5 [29/7/1435], nước Ai Lao lại làm phản, đánh vào Mường Viễn. Người Man họ Nữu nước ấy đánh bắt được 13 người, chém được 9 thủ cấp, cắt lấy tai đem dâng.

 Ngày mồng 7 [31/7/1435], thưởng cho các quan làm việc lâu năm, siêng năng tài cán. Hạng nhất được thưởng 1 tư và 5 quan tiền, hạng nhì được thưởng 1 tư [1 bậc].

 Trước đây, vua đã sai người đi hỏi ngầm khắp nước, đến đây căn cứ vào lời tâu, bắt và xét hỏi những viên tham quan ô lại không giữ phép nước, gồm Tuyên úy các phiên trấn, tướng hiệu 5 đạo, các viên Tuyên phủ, Chuyển vận; Tuần sát các lộ, trấn, huyện, cộng là 53 người.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 28a.

Tháng 8, có sâu keo hại lúa. Đúc xong tượng vàng Vua cha và mẫu hậu, bèn rước vào thờ tại Thái Miếu. Sứ bộ Lê Bính từ Trung Quốc trở về nước, tâu rằng có 7 nhân viên bị dịch chết:

Mùa thu, tháng 8, ngày [13/9/1435], sét đánh vào thuyền của quân Tây đạo. Có sâu hại lúa.

 Ngày 22 [14/9/1435], đúc xong tượng vàng của Thái Tổ và Quốc Thái mẫu, sai nhà sư làm phép điểm nhỡn[14] rồi rước vào Thái miếu để thờ.

 Ngày 28 [20/9/1435], Lê Bính và Nguyễn Thiên Tích vâng mệnh đi sứ phương Bắc trở về, tâu là phó sứ Phan Ninh, hành nhân Nguyễn Cát Phú và người đi theo, gồm 7 người bị bệnh dịch chết, nước Minh đều có điếu tế.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 28a.

Tháng 9, mở kỳ thi tại Vân Tập Đường để sát hạch những giáo chức và quân dân có học:

Bấy giờ các giáo quan phần nhiều không xứng đáng với chức vụ, lại hay chê bai nói xấu lẫn nhau. Việc này lên đến triều đình. Nhà vua sai các giáo chức ở Quốc Tử Giám và ở các lộ cùng với những người quân và dân có học vấn đều tập hợp để thi ở Vân Tập Đường, rồi căn cứ vào đấy sẽ xét kỹ để bổ dụng hoặc sa thải. Chân giáo chức nào khuyết sẽ lấy những người quân và dân đã thi đỗ mà bổ dụng vào.” Cương Mục, Chính Biên, quyển 16.

Ngày 18 [9/10/1435], bàn về việc cấp đất công và miễn giảm thuế; Gián quan Phan Thiên Tước yêu cầu phải miễn cho người neo đơn chết vợ, chết chồng, cuối cùng được chấp thuận:

Bấy giờ bàn việc giảm nhẹ ngạch thuế khóa. Sắc sai: phàm đất bãi công ở sở tại đều chia cấp cho quân và dân làm sản nghiệp đời đời: quân thì 5 sào, dân thì 4 sào, đều được miễn thuế. Còn riêng hạng quan, quả [chết vợ, chết chồng] đều không được miễn. Phan Thiên Tước nói:

‘Chính sự của vương giả, đối với những người quan, quả, phải thương xót trước, nay ơn huệ chỉ nhuần thấm đến quân và dân, còn hạng quan, quả phải riêng chịu khô héo! Thể thống chính sự há nên như vậy ư?’.

 Do đấy, hạn người quan, quả cũng được miễn tô 3 sào.” Cương Mục, Chính Biên, quyển 16

Tháng 10, bổ nhiệm quan đại thần tại các viện. Vua ngự xem 5 quân tập vượt sông; quan quân thuộc 5 đạo chuẩn bị 1 tháng lương, để tập luyện võ nghệ:

Mùa đông, tháng 10, ngày mồng 6 [27/10/1435], lấy Lê Cảnh Xước làm Nội mật viện sứ, vẫn hầu Kinh diên; Đào Công Soạn làm tri Thẩm hình viện sự; Nguyễn Văn Huyến làm tri Nội vật viện sự; Nguyễn Thúc Huệ làm Nội mật viện phó sứ; Hà Lật làm Hữu hình viện đại phu.

Ngày 18 [8/11/1435], vua ngự ra bến Đông [sông Hồng] phía đông thành xem năm quân thi vượt sông.

Ngày 29 [19/11/1435], ra lệnh chỉ cho các quan ngự tiền, các vệ quân và trấn quân năm đạo, cùng những người trong các sảnh, viện, cục, mỗi người đều phải mang lương ăn trong 1 tháng và các thứ chiến bào, đồ dùng, hạn đến ngày 15 tháng 11, phải tập hợp đầy đủ tại địa phận của mình để điểm danh và luyện tập võ nghệ.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 31a.

Ngày mồng 1 tháng 11, có nhật thực, quan phụ trách Khâm thiên giám Bùi Thì Hanh biết trước, nhưng cho là hiện tượng thiên nhiên, không mê tín cứu chữa bằng hình thức như gõ mâm, nồi vv… như trước:

Tháng 11, ngày Mậu Thìn, mồng 1 [20/11/1435], có nhật thực, vì Bùi Thì Hanh đã mật tâu từ trước, nên không hộ cứu mặt trời.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 31a.

Sứ Chiêm Thành đến nước ta, bị cật vấn về việc trước kia chiếm xứ Cổ Lũy [Quảng Ngãi] và không chịu nộp cống:

Chiêm Thành sai sứ sang.

Ngày 24 [13/12/1435], sứ Chiêm từ biệt về nước. Ban cho vải lụa. Sau Lê Nhữ Lãm hỏi bọn họ rằng:

‘Đồng ruộng các xứ Cổ Lũy [Quảng Ngãi] của nước Chiêm vốn là đất của ta, các ngươi nhân lúc nước ta nhiều biến cố, cướp lấy để tự vỗ béo mình, tới nay vẫn không nói đến trả lại. Lễ cống hàng năm lại không nộp là tại làm sao?’

 Sứ Chiêm trả lời:

‘Bọn thần muốn cho hai nước thân yêu nhau, còn để gõ cửa mà xin lửa. Song chúa nước thần già lẫn, không chịu tin ai. Thần xin triều đình cử sứ sang báo cho chúa nước tôi, nếu không thì dù bọn thần có nói cũng không có bằng chứng gì để làm tin cả’.

Nhữ Lãm nói:

‘Triều đình há lại không có lấy một sứ thần hay sao? Nhưng nước ngươi không giữ lễ nước nhỏ thờ nước lớn, thì sứ thần đâu có thể khinh xuất mà đi được?’.

Bèn làm công văn đóng dấu của Thượng thư trao cho sứ Chiêm mang về.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 31b.

Triều đình mang đại quân đi đánh châu Ngọc Ma, tại vùng Cam Môn, Cam Cớt phía tây tỉnh Nghệ An, bắt sống Tù trưởng Cầm Quí. Xứ Mường Bồn giáp giới với Ngọc Ma sợ vạ lây, nên trước đó xin qui thuận:

Mường Bồn Man sang cống các thứ ngà voi, sừng tê, bạc, vải. Mường Bồn giáp giới với đất của Cầm Quý, thấy Quý vô lễ, sợ vạ lây đến mình, cho nên quy thuận trước. Vua khen ngợi, sai đem áo kim tuyến về thưởng cho phụ đạo xứ ấy và ban lụa cho người đi sứ theo thứ bậc khác nhau.

Ngày 21  lấy Tư mã Tây đạo Lê Bôi làm Tổng quản; hữu bật Lê Văn Linh làm Tham đốc, đốc suất các vệ quân năm đạo và hai vạn trấn quân Nghệ An đi đánh tên phản nghịch Cầm Quý ở châu Ngọc Ma. Vua răn bảo phải nghiêm cấm tướng sĩ, vỗ yên nhân dân, tổng quản, đồng tổng quản, tổng tri nào trái lệnh thì bắt giam mà tâu xin xử tội. Từ vệ đồng tri trở xuống, người nào ra trận mà trái lệnh hoặc lùi lại thì cho chém trước tâu sau. Châu Ngọc Ma ở phía tây Nghệ An, phía đông Ai Lao. Cầm Quý chỉ có 1 vạn quân. Khi Thái Tổ khởi nghĩa, Quý đã từng đem quân sang giúp, được trao chức Thái úy. Ít lâu sau lại ngờ vực, hối hận tự đem quân về. Đến khi dẹp xong giặc Ngô, Quý rất hổ thẹn và lo sợ, nhưng lại cậy đất hiểm, đường xa, không chịu thuần phục. Quý là người tham lam, tàn bạo, cấm dân không được trồng trọt tranh với mình, xây dựng cung thất lớn, lấy đồng làm cột, vợ cả vợ lẽ phải kể hàng trăm, bắt dân đóng góp nặng, nói láo là để nộp cống, nhưng thực ra là vơ hết về mình. Thái Tổ định giết hắn, nhưng vì bấy giờ còn đương có việc, nên chưa rảnh tính đến. Tới đây, vua sai đi đánh, bắt Cầm Quý đóng củi đưa về kinh sư.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 31b.

Nhân Sứ nhà Minh sắp sang, bèn cử Đào Công Soạn kiêm chức Thượng thư bộ Lễ đặc trách việc tiếp đón:

Lấy tri Thẩm hình viện sự Đào Công Soạn làm Thẩm hình viện sứ kiêm Lễ bộ thượng thư. Công Soạn rất am hiểu điển cũ và phong tục người Ngô. Bấy giờ sứ nhà Minh sắp sang, vua muốn Công Soạn giữ việc ứng tiếp, cho nên có lệnh này.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 33a.

Tháng chạp, Sứ thần nhà Minh bọn Chu Bật sang báo tin Vua Anh Tông lên ngôi. Bật là tên tham lam, lén nhận vàng và cho mang hàng ngàn gánh hàng hóa sang ép mua. Đến ngày 11, phái đoàn nước ta do Nguyễn Văn Huyến cầm đầu, theo Chu Bật sang Yên Kinh dâng biểu mừng:

Tháng 12, sứ Minh là Chu Bật, Tạ Kinh sang báo việc vua Minh lên ngôi và việc gia tôn thái hoàng thái hậu. Bật vào đến địa giới, trước hết sai người tâu với vua mặc đồ cát phục[15] đón tiếp. Đến khi mở đọc chiếu thư, cũng không làm lễ cử ai, yến tiệc vui chơi như thường. Bọn Bật tham lam thô bỉ, trong bụng rất hám tiền của nhưng ngoài mặt làm ra vẻ liêm khiết, mỗi khi có tặng lễ vật vàng bạc, đều từ chối không nhận, nhưng lại nhìn những người đi theo nét mặt ngần ngại. Triều đình biết ý, mới đưa những người đi theo sang dự yến ở phòng khác, rồi nhân lúc rót rượu, ngầm lấy mấy nén vàng ấn vào lòng bọn Bật. Bật mừng rỡ khôn xiết. Bọn Bật lại mang nhiều hàng phương Bắc sang, đặt giá cao, ép triều đình phải mua. Đến khi về nước, phải bắt đến gần một nghìn dân phu khiêng gánh đồ cống vật và hành lý của bọn Bật.

Ngày 11 [30/12/1435], lấy tri nội mật viện là Nguyễn Văn Huyến, Điện trung thị ngự sử Lương Thiên Phúc, Quản lĩnh Lê Lung, Tả hình viện đại phu Đinh Lan, cùng đi với sứ phương Bắc là Chu Bật, đem biểu mừng vua Minh lên ngôi và hoàng thái hậu được gia tôn.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 33a.

Ngoài ra trong tháng chạp cho đào vét sông Đuống tại vùng Từ Sơn, Bắc Ninh và hoàn thành bản khắc gỗ bộ Tứ Thư Đại Toàn:

Hạ lệnh cho vệ quân các đạo và năm quân Thiết đột vét sông Đông Ngàn.[16]

Ván khắc mới sách Tứ Thư Đại Toàn hoàn thành.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 11, trang 33b.

—————–

[1] Thành Vương: là vua nhà Chu, Thái Giáp: là vua nhà Thương, được coi là những vua giỏi thời cổ của Trung Quốc.

[2] Nguyên văn “thập tiệm”. Nguỵ Trưng là hiền thần của Đường Thái Tông, dâng sớ xin vua đề phòng 10 điều lầm lỗi có thể thấm dần mà mắc phải.

[3] Tự điển: danh sách các vị thần được triều đình chính thức phong tặng, được hưởng cúng tế.

[4] Bồi thần: vốn là chức quan đại phu của chư hầu xưng với thiên tử. Ở đây Tông Trụ là quan đại phu triều Lê, đi cống nhà Minh, xưng với thiên tử nhà Minh.

[5] Hồng lô tự của nhà Minh.

[6] Long Châu là tên huyện thuộc phủ Thái Bình, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.

[7] Vùng đất thượng lưu sông Mã, thuộc tỉnh Thanh Hóa.

[8] La La Tư: Theo Nguyên Sử Loại Biên thì La La Tư tuyên úy ti do nhà Nguyên thiết lập, thuộc lộ Vân Nam, đến đời Minh, thuộc vệ Vĩnh Xương.

[9] Mãn Thứ Gia: Tức Melaka, một bang của Mã Lai.

[10] Cáp Mật: Một bộ tộc nay thuộc tỉnh Tân Cương.

[11] Mường Qua: Nước Lão Qua.

[12] Mường Tàm: Tức Tàm Châu, vùng thượng lưu sông Mã nước Ai Lao.

[13] Sinh trị: Nghĩa là sinh đã biết mọi việc, không cần phải dạy bảo, từ này chỉ dùng cho các bậc thánh nhân.

[14] Điểm nhỡn: Vẽ mắt tượng.

[15] Cát phục: Y phục mặc lúc có việc vui, trái với tang phục.

[16] Sông Đông Ngàn: Khúc sông Đuống chảy qua huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.