Nga sẵn lòng gây biến động toàn cầu tới đâu?

Nguồn: Hanna Notte, “How Big Is Russia’s Appetite for Upheaval?,” Foreign Affairs, 27/02/2025

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Bất chấp sự ủng hộ của Trump, vẫn có giới hạn đối với các xung lực phá hoại của Moscow.

Việc Tổng thống Mỹ Donald Trump ủng hộ Nga dường như đang làm gia tăng mối đe dọa đã gây báo động ở các thủ đô phương Tây suốt năm qua: sự liên kết của một nhóm đối thủ đáng gờm, bao gồm Trung Quốc, Iran, Triều Tiên, và Nga, trong một “trục biến động” do Nga đứng đầu. Cả bốn nước đều theo chủ nghĩa xét lại, với ý định lật đổ trật tự toàn cầu mà họ cho là chống lại mình. Phương Tây lo ngại rằng, ngoài việc hỗ trợ kinh tế, quân sự, và chính trị cho nhau, các quốc gia này có thể phát động cuộc xung đột khiến phương Tây phải chật vật kiềm chế những tác động gây bất ổn.

Bằng cách tách mình khỏi các đồng minh phương Tây và tham gia đàm phán về cuộc chiến ở Ukraine, Washington đã gợi ý rằng một trong những mục tiêu của họ là gây chia rẽ giữa Nga và các đối tác. Nhưng kết quả đó là không thực tế. Nga hy vọng sẽ giành chiến thắng ở Ukraine, dù sớm hay muộn, có hay không có thỏa thuận với Mỹ. Do đó, họ không có lý do gì để cắt đứt quan hệ với các đối tác có giá trị chỉ để làm hài lòng Trump – và sẽ đặc biệt không muốn làm đảo lộn quan hệ đáng tin cậy với Bắc Kinh để theo đuổi quan hệ với Washington, vốn có thể chỉ kéo dài cho đến kỳ bầu cử tiếp theo của Mỹ. Nếu chính quyền Trump dỡ bỏ áp lực của Mỹ đối với Moscow, Nga sẽ vừa có quan hệ chặt chẽ hơn với các quốc gia theo chủ nghĩa xét lại khác, vừa có được mức độ khoan dung chưa từng thấy từ Washington đối với các chính sách đối ngoại mang tính phá hoại của nước này.

Nhưng ngay cả trong một môi trường tương đối dễ chịu, tham vọng gây biến động thế giới của Nga cũng có giới hạn. Những cuộc xung đột mới nổ ra không hẳn sẽ có lợi cho họ. Xét đến nguồn lực hữu hạn và mối bận tâm với Ukraine, khả năng Moscow có thể định hình kết quả theo hướng có lợi cho mình ở những nơi khác trên thế giới bị hạn chế rất nhiều. Chẳng hạn, gần đây, khi bạo lực lan rộng khắp Trung Đông, người Nga lúc đầu đã lạc quan rằng các hành động thù địch sẽ gây hại cho đối thủ của mình, nhưng cuộc xung đột đó cuối cùng lại làm suy yếu vị thế của Moscow vì nó phơi bày điểm yếu của một đối tác của Nga là Iran, rồi lên đến đỉnh điểm là sự sụp đổ của một đối tác khác, chế độ ở Syria. Sự phụ thuộc của Nga vào các đối tác khác ngoài Trung Quốc, Iran, và Triều Tiên cũng đã hạn chế khả năng gây rắc rối của nước này. Nhu cầu duy trì quan hệ ổn định với Ấn Độ và đặc biệt là Ả Rập Saudi đã làm dịu đi những xung lực hung hăng của họ, và mong muốn tránh làm phật lòng các quốc gia phương Nam toàn cầu của Moscow đã buộc họ phải tham gia các diễn đàn ngoại giao đa phương, như BRICS và Liên Hiệp Quốc, với sự thận trọng nhất định.

Những hạn chế này sẽ mạnh nhất chừng nào Nga còn tiếp tục tiến hành chiến tranh ở Ukraine, nhưng chúng cũng sẽ tồn tại dưới một hình thức nào đó sau khi đạt được thỏa thuận kết thúc cuộc chiến. Nếu họ đủ khả năng kiểm soát hậu quả của hành động can thiệp, Moscow có thể sẽ tin rằng lợi ích lớn hơn rủi ro. Nhưng khi sự can thiệp của họ có thể leo thang thành một cuộc xung đột toàn diện đòi hỏi sự tham gia của quân đội Nga, Moscow có lẽ sẽ kiềm chế hơn. Trên thực tế, điều này có nghĩa là Nga gần như chắc chắn sẽ đẩy mạnh các chiến dịch thông tin sai lệch và các hành vi phá hoại (như tấn công mạng và phá hoại cơ sở hạ tầng) ở châu Âu, nhận ra rằng mong muốn rút lui khỏi lục địa già của Mỹ là cơ hội làm xói mòn thêm sự gắn kết của NATO. Tuy nhiên, sự chần chừ của Nga đối với việc bị vướng mắc về quân sự sẽ ngăn cản nước này gây biến động trên Bán đảo Triều Tiên, Trung Đông, và thậm chí ở các quốc gia châu Phi nơi họ duy trì sự hiện diện về an ninh. Sau khi phải đối mặt với sự phản đối dành cho chương trình nghị sự xét lại của mình tại các diễn đàn đa phương, Moscow cũng có thể đánh giá lại chiến lược ngoại giao của mình, một phần dựa trên mức độ tàn phá mà chính Mỹ sẽ gây ra cho các thể chế đó.

Nga đã chấp nhận chơi đường dài, và họ hiểu rằng mình cần phải cân nhắc từng cuộc đối đầu, nhất là khi sự ủng hộ bất ngờ từ chính quyền Mỹ có thể chỉ là nhất thời hoặc đầy biến động. Để các quốc gia vẫn quyết tâm chống lại sự gián đoạn từ Nga có thể hành động hiệu quả trong kỷ nguyên mới đầy bất định này, họ cũng sẽ cần phải đánh giá cẩn thận nơi nào và khi nào nên tham gia cuộc chiến – bắt đầu với mặt trận châu Âu ngày càng nguy hiểm.

QUÁ NHIỀU HỖN LOẠN

Xung đột xảy ra đồng thời ở nhiều nơi trên thế giới thường được cho là có lợi cho các cường quốc xét lại và khiến phương Tây phải trả giá. Lý do là nhiều nước phương Tây vẫn phụ thuộc vào Mỹ để bảo vệ mình: Washington là người duy nhất gánh trên vai gánh nặng mở rộng khả năng răn đe hạt nhân và các hình thức đảm bảo an ninh khác cho các đồng minh và đối tác chủ yếu ở Châu Á và Châu Âu. Xét đến các cam kết nhiều tầng lớp của Mỹ, các nguồn lực chung của phương Tây có thể bị dàn mỏng nếu Mỹ bị kéo vào nhiều cuộc khủng hoảng cùng một lúc. Giờ đây, khi thiện chí giúp đỡ của Mỹ bị nghi ngờ, các đối tác của Mỹ có lẽ đang lo lắng hơn bao giờ hết về việc tăng cường phòng thủ trên nhiều mặt trận. Điều ít được chú ý hơn là thực tế rằng Nga và các đối tác của họ cũng đối mặt với những hạn chế của riêng mình, theo đó làm giảm hứng thú của họ đối với việc gây ra xung đột.

Hãy lấy làn sóng thù địch gần đây ở Trung Đông làm ví dụ. Sau khi Hamas tấn công Israel vào ngày 07/10/2023, Nga ban đầu đã hoan nghênh sự xao nhãng khỏi cuộc chiến ở Ukraine. Khi Israel bắt đầu chiến đấu ở Gaza, rồi sau đó bắt đầu tấn công lực lượng dân quân Hezbollah do Iran hậu thuẫn ở Lebanon và chống trả các cuộc tấn công từ cả Iran lẫn Houthi ở Yemen, Mỹ đã di chuyển các khẩu đội tên lửa Patriot và các loại vũ khí khác đến khu vực này. Washington cũng dành nhiều nỗ lực ngoại giao để thúc đẩy các cuộc đàm phán ngừng bắn ở Gaza và sau đó là Lebanon. Mặt khác, Moscow lại không làm gì nhiều để cố gắng xoa dịu những căng thẳng đang lan rộng. Dường như áp lực gia tăng mà các cuộc xung đột gây ra cho các hệ thống phòng không hữu hạn của phương Tây, cũng như sự phẫn nộ ngày càng tăng của phần còn lại của thế giới đối với thứ tiêu chuẩn kép mà họ nhận thấy trong phản ứng của phương Tây đối với các cuộc chiến ở Gaza và Ukraine, sẽ chỉ có lợi cho Nga.

Tuy nhiên, tình hình hỗn loạn ở Trung Đông đã chứng tỏ là quá dữ dội và quá khó lường khiến Moscow không thể dễ dàng tìm ra hướng đi có lợi cho mình. Chứng kiến đối tác Iran bị suy yếu do các cuộc đối đầu trực tiếp và ủy nhiệm với Israel, Nga đã không đưa ra bất kỳ sự hỗ trợ có ý nghĩa nào. Các cuộc tấn công của Iran vào Israel hồi tháng 4 và tháng 10 năm 2024 chỉ gây ra thiệt hại vật chất và thương vong tối thiểu, qua đó cho thấy khả năng tên lửa của nước này không đáng gờm như suy nghĩ trước đây. Các cuộc tấn công trả đũa của Israel, đặc biệt là cuộc tấn công vào tháng 10, đã làm suy yếu khả năng sản xuất tên lửa và phòng không của Iran. Chiến dịch của Israel chống lại Hezbollah cũng làm suy yếu sức mạnh của nhóm này, và vào đầu tháng 12, tình hình này đã giúp các lực lượng nổi dậy ở Syria lật đổ chế độ của Bashar al-Assad, một đồng minh của cả Moscow và Tehran.

Việc Assad bị lật đổ nói riêng đã phơi bày giới hạn của tham vọng của Nga và khả năng nước này định hình các sự kiện ở những nơi xa xôi. Trong những tháng ngay trước khi chế độ Syria sụp đổ, Moscow – bên đã duy trì sự hiện diện quân sự tại Syria kể từ năm 2015 – đã tăng cường tuần tra gần Cao nguyên Golan do Israel chiếm đóng ở phía tây nam, cũng như tăng cường các cuộc ném bom ở Tỉnh Idlib ở phía tây bắc để ngăn chặn phiến quân chống Assad hành động chống lại chế độ, đồng thời ngăn chặn Israel và Thổ Nhĩ Kỳ lợi dụng tình hình hỗn loạn để thúc đẩy mục tiêu của riêng họ ở Syria. Nhưng khi phiến quân bắt đầu cuộc tấn công chớp nhoáng vào cuối tháng 11, lực lượng Nga hầu như đã đứng sang một bên. Bận tâm với Ukraine, Điện Kremlin không có nguồn lực quân sự và cũng không muốn cứu đồng minh Syria của mình.

Cuối cùng, làn sóng xung đột gần đây ở Trung Đông đã làm xói mòn vị thế chiến lược của Nga. Moscow không thể hoặc không muốn can thiệp quyết liệt thay mặt cho các đối tác của mình trong khu vực, và kết quả là Nga đã mất đi ảnh hưởng ở đó. Thay vì hỗ trợ lẫn nhau trong các hoạt động phá hoại, Nga và Iran đang tập trung vào các cuộc chiến của riêng mình, và do đó bị hạn chế, chí ít là trong ngắn hạn, về khả năng cung cấp hỗ trợ ở những nơi khác.

BẠN CỦA KẺ THÙ CỦA TÔI

Moscow cũng buộc phải cân bằng động lực phá hoại trong chính sách đối ngoại của mình với lợi ích của các đối tác không chấp nhận mục tiêu xét lại mà họ chia sẻ với Trung Quốc, Iran, và Triều Tiên. Những “nhà cải cách” này bao gồm các quốc gia phi phương Tây hùng mạnh muốn cập nhật các quy tắc quản trị toàn cầu nhưng vẫn muốn hệ thống quốc tế hiện tại hoạt động; nhóm này tìm kiếm quan hệ tốt với phương Tây và ưa thích sự ổn định hơn là sự biến động.

Đối với Nga, điều đặc biệt quan trọng là duy trì quan hệ tốt đẹp với Ấn Độ và Ả Rập Saudi. Ấn Độ là nước mua dầu lớn nhất và là nước cung cấp hàng hóa lưỡng dụng lớn thứ hai cho Nga – những mặt hàng có giá trị cho cả mục đích quân sự và thương mại – và hai nước cũng duy trì quan hệ quốc phòng-công nghiệp chặt chẽ. Trong khi đó, Ả Rập Saudi là bên đối thoại chính của Nga trong OPEC, tổ chức có ảnh hưởng đáng kể đến thị trường dầu mỏ toàn cầu. (Nga tham gia OPEC+, bao gồm các thành viên OPEC cùng nhiều nước sản xuất dầu khác.) Doanh thu từ dầu khí chiếm khoảng một phần ba ngân sách nhà nước của Nga và vì thế nó rất quan trọng đối với khả năng tiến hành chiến tranh ở Ukraine; Moscow khó có thể cầm cự nếu giá dầu giảm mạnh. Bản thân Ả Rập Saudi có thể không muốn giá dầu giảm, nhưng họ cũng có thể phải đối mặt với áp lực từ Mỹ: Trump đã gợi ý trong một bài phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới vào tháng 1 rằng ông có thể “yêu cầu Ả Rập Saudi và OPEC hạ giá dầu” để chiến tranh buộc phải chấm dứt. Nếu Điện Kremlin và giới lãnh đạo Ả Rập Saudi có thể duy trì quan hệ tốt đẹp, thì cả hai đều sẽ củng cố vị thế mặc cả của mình đối với Washington.

Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi, Tổng thống Nga Vladimir Putin và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Kazan, Nga, tháng 10/2024. © Alexander Zemlianichenko / Reuters

Thay vì hợp tác toàn diện với “trục biến động,” Nga đã điều chỉnh các chính sách của mình để tính đến quan ngại của các đối tác cải cách về các thành viên khác của trục. Chẳng hạn, khi Nga cân nhắc chuyển giao vũ khí cho Houthi do Iran hậu thuẫn vào mùa hè năm ngoái, Ả Rập Saudi – quốc gia xem Iran là đối thủ – đã gây sức ép buộc Moscow hủy bỏ kế hoạch. Hồi tháng 12, các phương tiện truyền thông đưa tin rằng Nga đang thảo luận về một thỏa thuận bán cho Ấn Độ hệ thống radar tiên tiến Voronezh, có thể giúp quân đội Ấn Độ giám sát không phận phía trên Trung Quốc, nơi có chung đường biên giới đang tranh chấp với Ấn Độ.

Đáp ứng các yêu cầu của phe cải cách cũng là điều cốt yếu để Nga thực hiện tham vọng trở thành một thế lực toàn cầu. Nga tuyên bố rằng mình đang dẫn dắt cái mà họ gọi là “đa số thế giới” trong nỗ lực vượt qua ảnh hưởng quá lớn của phương Tây trong các vấn đề toàn cầu. Trong thời gian Moscow giữ vai trò chủ tịch BRICS năm ngoái, các quan chức Nga đã tổ chức hàng trăm cuộc họp và nhóm làm việc xoay quanh nhiều vấn đề khác nhau, từ năng lượng hạt nhân đến y tế, để thúc đẩy chương trình nghị sự này. Tuy nhiên, Brazil và Ấn Độ đã phản đối các nỗ lực của Nga (và Trung Quốc) nhằm sử dụng BRICS để làm suy yếu phương Tây và các thể chế liên quan đến phương Tây. Ví dụ, khi phát biểu tại hội nghị thượng đỉnh BRICS ở Nga vào tháng 10 năm ngoái, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi đã cảnh báo rằng khối này không nên tự xem mình là “một giải pháp thay thế cho các tổ chức toàn cầu.” Nga sau đó đã dịu giọng hơn tại hội nghị thượng đỉnh, với việc Tổng thống Vladimir Putin đưa ra lời đảm bảo rằng BRICS sẽ không trở thành một “liên minh chống phương Tây.”

Khả năng Nga sử dụng các tổ chức đa phương để gây bất ổn cũng vấp phải những hạn chế tương tự. Là một thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, Nga có thể phủ quyết các sáng kiến do các thành viên phương Tây đưa ra, và nước này đã ngày càng sẵn sàng làm như vậy kể từ năm 2022. Nhưng đôi khi, Moscow đã kiềm chế hành vi phá hoại của mình để tránh bị phản kháng. Tháng 6 năm ngoái, Nga đã không tham gia bỏ phiếu tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc về kế hoạch ngừng bắn do Mỹ bảo trợ cho Gaza, vì nhận ra rằng các quốc gia Ả Rập ủng hộ kế hoạch này và sẽ tức giận nếu Nga phủ quyết. Tuy nhiên, Moscow đã không khéo léo được như vậy tại Hội nghị Thượng đỉnh về Tương lai của Liên Hiệp Quốc vào tháng 9, khi họ phải hứng chịu sự chỉ trích từ Mexico và một số quốc gia châu Phi khác. Lý do là vì các nhà ngoại giao Nga cố gắng làm chệch hướng thỏa thuận cuối cùng của hội nghị, được gọi là “Hiệp ước Vì Tương lai,” trong khi vẫn tuyên bố rằng mục đích của họ là bảo vệ “khát vọng của phương Nam toàn cầu” khỏi “phương Tây tập thể.” Hành vi gây gián đoạn của Nga đã phản tác dụng một cách ngoạn mục; chỉ có sáu nước khác ủng hộ động thái hoãn thông qua thỏa thuận, trong khi 143 nước bỏ phiếu chống và 15 nước bỏ phiếu trắng. Một Moscow tỉnh táo hơn có thể sẽ chọn cách hành xử thận trọng hơn trong các cuộc đàm phán đa phương trong tương lai.

BIẾN ĐỘNG CÓ KIỂM SOÁT

Được những đồng minh theo chủ nghĩa xét lại của mình hỗ trợ, Nga sẽ tiếp tục gây bất ổn toàn cầu. Nhưng không phải tất cả mọi biến động đều là biến động được mong muốn, vì vậy Moscow sẽ tập trung vào các cơ hội mà họ kỳ vọng sẽ mang lại lợi ích chiến lược. Ở châu Âu, nơi Nga đã tấn công cơ sở hạ tầng dân sự và quân sự và can thiệp vào chính trị trong nước suốt nhiều năm qua, chiến lược của Điện Kremlin có thể đã tính đến các phản ứng dữ dội tiềm tàng nhắm vào mình. Tệ hơn, Moscow có thể xem những lời khiển trách thường xuyên của chính quyền Trump đối với các đồng minh châu Âu và việc chấp nhận các lực lượng phản tự do trên khắp lục địa là lời mời can thiệp nhiều hơn nữa. Các hoạt động của Nga – vốn được thiết kế để làm xói mòn dần dần sự thống nhất của châu Âu – sẽ không chỉ tiếp tục mà thậm chí còn gia tăng. Ở các quốc gia dễ bị tổn thương nằm giữa sườn phía đông của NATO và Nga, chẳng hạn như Moldova, Moscow cũng có thể nhìn thấy lợi ích khi gieo rắc hỗn loạn, được khuyến khích bởi sự thờ ơ rõ ràng của Washington đối với khu vực đó. Hồi tháng 1, Nga đã thử nghiệm bằng cách cắt nguồn cung khí đốt cho vùng lãnh thổ ly khai Transnistria, với hy vọng tạo ra một cuộc khủng hoảng cho chính quyền trung ương thân châu Âu của Moldova.

Nhưng ở những nơi khác trên thế giới, Nga có thể thấy ít lợi ích hơn khi gây ra rắc rối, vì họ cần phải cân nhắc cả những hạn chế về tài nguyên của mình lẫn sự khó lường của chính quyền Trump. Chẳng hạn, nếu Iran vượt qua ngưỡng hạt nhân, thì Israel (và nhiều khả năng là Mỹ) có thể sẽ đáp trả bằng hành động quân sự, dẫn đến một cuộc chiến có thể phơi bày sự bất lực của Nga – Moscow không thể và không muốn can thiệp vào việc phòng thủ của Iran, vì sẽ có nguy cơ đối đầu trực tiếp với Washington – đồng thời làm mất ổn định khu vực Caucasus rộng lớn hơn ở phía nam. Do đó, Moscow khó có thể giúp Tehran xây dựng kho vũ khí hạt nhân ở mức có thể hoạt động. Nga đã nâng cao quan hệ đối tác quốc phòng với cả Iran và Triều Tiên, nhưng họ không muốn bị lôi kéo vào các cuộc chiến của hai nước này – không phải trong lúc họ vẫn đang chiến đấu ở Ukraine, và có lẽ cũng không phải sau đó. Ở Dải Sahel, Nga cũng đã hiệu chỉnh lại vai trò quân sự của mình. Quân đoàn Châu Phi của Nga – lực lượng lính đánh thuê do nhà nước kiểm soát đã thay thế nhóm bán quân sự Wagner ở hầu hết các quốc gia mà nhóm này từng hoạt động – chỉ muốn tập trung vào việc huấn luyện quân đội địa phương thay vì tham gia vào các loại nhiệm vụ rủi ro cao mà lực lượng Wagner từng thực hiện. Moscow đang hướng tới việc thiết lập các quan hệ đối tác an ninh bổ sung ở Châu Phi, để từ đó tăng cường vị thế của Nga ở sườn phía nam của NATO. Nhưng xung đột leo thang có thể gây nguy hiểm cho mục tiêu này vì nó có thể đòi hỏi nhân lực và nguồn lực của Nga hơn mức Moscow sẵn sàng triển khai.

Nga có thể sẽ tiếp tục điều chỉnh lập trường của mình trong ngoại giao đa phương. Họ sẽ ủng hộ BRICS và các diễn đàn phi phương Tây khác, nhưng có lẽ sẽ làm dịu chương trình nghị sự chống phương Tây của mình để duy trì quan hệ tốt đẹp với Brazil, chủ tịch BRICS năm nay, và Ấn Độ, nơi Putin đang có kế hoạch đến thăm trong năm nay. Nga có thể chấp nhận rằng tiến trình về các vấn đề thực tế, chẳng hạn như tạo ra một hệ thống thanh toán toàn cầu tránh các tổ chức tài chính của Mỹ hoặc thiết lập các biện pháp tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế bằng tiền tệ địa phương, sẽ đòi hỏi một cách tiếp cận thận trọng để đảm bảo sự ủng hộ từ Brazil, Ấn Độ và các bên tham gia chính khác. Tuy nhiên, Moscow cũng có thể nhận ra họ đang ngày càng có nhiều quyền hạn hơn để phá hoại quản trị toàn cầu trong những năm tới, vì sự khinh thường công khai của Trump đối với chủ nghĩa đa phương khiến các hành động đơn phương của Nga có vẻ ít bất thường hơn. Và khuynh hướng liên kết với Nga của chính quyền Trump – đầu tuần này, Mỹ đã đứng về phía Nga trong hai cuộc bỏ phiếu tại Liên Hợp Quốc để đánh dấu kỷ niệm ba năm cuộc xâm lược Ukraine của Nga – có thể tạo cơ hội cho các nhà ngoại giao Nga khai thác những rạn nứt trong nội bộ phương Tây, nhưng vẫn cẩn trọng không gây hấn với Washington hoặc các đối tác cải cách của Nga.

CHỌN TRẬN CHIẾN CỦA RIÊNG MÌNH

Nga sẽ không đàm phán để từ bỏ mối liên kết với các cường quốc xét lại khác, vì vậy, châu Âu và các đối tác của mình cần giải quyết cách mà các quan hệ này làm phức tạp quyết định của họ về việc ưu tiên các mối đe dọa nào và cách phân bổ nguồn lực ra sao. Có nhiều điểm xung đột tiềm tàng. Nhưng việc cho rằng Nga đang gây hỗn loạn ở khắp mọi nơi và cùng một lúc là không chính xác và không hữu ích. Một chiến lược đối phó hiệu quả và bền vững phải nhận ra những hạn chế mà Moscow đang phải đối mặt và tập trung nỗ lực của phương Tây cho phù hợp.

Ở châu Âu, có khả năng cao là sự can thiệp của Nga sẽ leo thang. Các làn sóng đốt phá, ám sát, và thông tin sai lệch sắp tới cần được chú ý ngay lập tức. Các nước châu Âu không chỉ phải bắt Nga trả giá vì đã thực hiện các chiến dịch kết hợp bằng cách thắt chặt hệ thống lệnh trừng phạt; họ cũng cần phải có các công cụ để ứng phó với các cuộc tấn công mạng tương tự. Họ cũng phải chuẩn bị cho tình huống xấu hơn: Nga cuối cùng có thể sẽ sử dụng một lực lượng quân sự được tính toán cẩn thận để chống lại một thành viên NATO châu Âu, nếu họ nhận thấy liên minh này quá yếu về mặt quân sự và quá chia rẽ về mặt chính trị để có thể ứng phó hiệu quả. Dù các hoạt động của Nga ở châu Phi không phải là mối đe dọa trực tiếp đối với châu Âu, nhưng các nước châu Âu nên nỗ lực ngăn chặn việc củng cố sự hiện diện quân sự của Nga ở sườn phía nam của NATO. Đặc biệt, họ nên cố gắng cản trở kế hoạch của Nga nhằm di chuyển các cấu trúc hậu cần mà nước này đã thiết lập trước đó ở Syria sang Libya, nơi đóng vai trò là trung tâm mới cho các hoạt động của Quân đoàn Châu Phi. Những nỗ lực hiện tại nhằm cố gắng gây chia rẽ giữa Moscow và Chỉ huy Quân đội Quốc gia Libya, Khalifa Haftar, người kiểm soát các khu vực Libya có tài sản quân sự của Nga, chỉ đơn giản là không đủ. Châu Âu và các đối tác của mình cũng cần phải quay trở lại với công việc khó khăn và không mấy hấp dẫn là khuyến khích quản trị toàn diện ở Libya. Để hạn chế sự xâm nhập của Nga ở những nơi khác, họ nên cung cấp hợp tác an ninh cho các đối tác châu Phi hoặc, vì những hạn chế về nguồn lực của chính họ, nên khuyến khích các quốc gia đang có sự hiện diện ngày càng tăng trên lục địa này – như Thổ Nhĩ Kỳ và các quốc gia vùng Vịnh – đóng một vai trò lớn hơn.

Ngoài châu Âu và châu Phi, mối đe dọa trực tiếp mà Nga gây ra cho phương Tây là có giới hạn, chí ít là trong hiện tại. Hợp tác quốc phòng của Nga với Trung Quốc, Iran, và Triều Tiên chắc chắn là một vấn đề vì nó sẽ tăng cường năng lực quân sự của cả bốn nước. Nhưng Nga không phải là nguồn gây bất ổn chính ở hầu hết các khu vực trên thế giới. Tuy nhiên, châu Âu và Mỹ nên tiếp tục hợp tác chặt chẽ để thực thi các lệnh trừng phạt và kiểm soát xuất khẩu nhằm ngăn chặn Nga và các đối tác hợp tác phát triển các công nghệ cực kỳ nhạy cảm. Họ cũng phải tiếp tục hợp tác với các quốc gia có thể giúp ngăn chặn các hình thức hợp tác nguy hiểm – ví dụ, Ả Rập Saudi có thể ngăn Nga chuyển giao vũ khí tấn công tầm xa cho Iran hoặc Houthi. Việc xem xét khả năng Nga tham gia vào chiến tranh trên Bán đảo Triều Tiên hoặc Trung Đông không cấp thiết bằng. Ngoài ra, khả năng liên kết Trung-Nga dẫn đến các hình thức thông đồng cực đoan trong thời chiến, chẳng hạn như việc cả hai sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật trong các cuộc xung đột đồng thời, có vẻ là một viễn cảnh thậm chí còn xa vời và không thể xảy ra hơn, nhưng nếu những kịch bản như vậy xảy ra, hậu quả sẽ đủ thảm khốc để các nhà hoạch định quốc phòng phương Tây phải cân nhắc cách xử lý hành động xâm lược mang tính cơ hội như vậy.

Trong các thể chế đa phương, việc làm suy yếu sức mạnh của Nga đòi hỏi các nước phương Tây phải nỗ lực đáp ứng các yêu cầu chính đáng của các quốc gia phương Nam toàn cầu đang kêu gọi quản trị toàn cầu toàn diện hơn. Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới, và Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc đều có sự đại diện mất cân bằng cần phải được giải quyết, bất kể cải cách đó có khó khăn đến đâu. Sự xa lánh giữa các thành viên BRICS và G-7 chỉ khiến lời kêu gọi của Nga về một khối chống phương Tây thêm hấp dẫn, vì vậy việc ngăn chặn sự xa lánh sẽ là chìa khóa. G-20 có thể đóng vai trò là cầu nối giữa hai nhóm quốc gia – điều này khiến quyết định của chính quyền Trump về việc không tham dự cuộc họp của các bộ trưởng ngoại giao G-20 tại Nam Phi vào tuần trước càng trở nên nguy hiểm hơn. Chính quyền Mỹ đã rời khỏi một số cơ quan của Liên Hiệp Quốc và nếu sự thờ ơ của họ đối với chủ nghĩa đa phương bị kéo dài, các nước châu Âu và các nước cùng chí hướng như Australia, Canada, và Nhật Bản sẽ phải lấp đầy khoảng trống, cung cấp sự lãnh đạo chính trị, bù đắp sự thiếu hụt về nguồn lực, và hỗ trợ tổ chức. Nếu họ không hành động, Nga có thể nắm bắt cơ hội để làm xói mòn thêm sức hấp dẫn của các thể chế toàn cầu này.

Chính quyền Trump thứ hai tự nó cũng là nguồn gây ra biến động – trong quản trị toàn cầu, đối với châu Âu và nhiều đồng minh khác của Mỹ. Đối với Nga, sự tái định hướng của Mỹ mang lại một vài bất ổn, nhưng nhiều cơ hội hơn. Khả năng Nga lợi dụng sự bất ổn ở những khu vực xa xôi bị giới hạn về mặt cấu trúc, và điều này có khả năng sẽ tiếp diễn. Và nếu Trump, trong vai trò tổng thống, thỉnh thoảng lại áp đặt luật pháp và trật tự theo ý thích của mình, thì kết quả có thể không phải lúc nào cũng theo ý muốn của Nga. Nhưng sự rút lui rõ ràng của Trump về với tư duy “phạm vi ảnh hưởng” theo kiểu thế kỷ 19 cũng có thể trao cho Nga nhiều quyền hạn hơn để tăng cường can thiệp vào châu Âu – và châu Âu cùng các đối tác của mình phải được trang bị các đánh giá chính xác về cả các mục tiêu tiềm năng và giới hạn tiềm năng của các nỗ lực phá hoại của Moscow nếu họ muốn vượt qua tình hình biến động sắp tới.

Hanna Notte là giám đốc Chương trình Không phổ biến Vũ khí hạt nhân Á-Âu tại Trung tâm Nghiên cứu Không phổ biến Vũ khí hạt nhân James Martin và là và cộng tác viên cao cấp không thường trú của Chương trình Châu Âu, Nga, và Á-Âu tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế.