Bóng ma ‘Phần Lan hóa’ ám ảnh cuộc tranh luận về Ukraine

Nguồn: Kristi Raik, “The Ghost of Finlandization Is Haunting the Ukraine Debate,” Foreign Policy, 15/09/2025

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Hiệp định đình chiến đổi đất lấy hòa bình năm 1944 không phải là tiền lệ tốt để chấm dứt cuộc chiến hiện tại của Nga.

Trong lúc Mỹ và châu Âu nỗ lực hướng tới một thỏa thuận kết thúc cuộc chiến Nga-Ukraine, Kyiv đang phải đối mặt với áp lực ngày càng tăng buộc họ chấp nhận nhượng bộ lãnh thổ. Gần đây, sự chú ý đã đổ dồn vào một tiền lệ khả thi cho một thỏa thuận đổi đất lấy hòa bình với Moscow: hiệp định đình chiến Phần Lan-Liên Xô năm 1944, được ký sau hai cuộc chiến liên tiếp giữa hai nước láng giềng. Helsinki chấp nhận chuyển giao vĩnh viễn một phần lớn lãnh thổ của Phần Lan cho Moscow và từ đó không bao giờ bị tấn công nữa.

Trong những tuần gần đây, ví dụ này đã trở thành tâm điểm của cuộc tranh luận, với việc Tổng thống Phần Lan Alexander Stubb và tờ Economist ca ngợi nó như một tiền lệ tích cực. Tại Hội nghị Chiến lược Châu Âu Yalta thường niên do Quỹ Victor Pinchuk tổ chức ở Kyiv cuối tuần này, nhà sử học có ảnh hưởng Niall Ferguson đã không tiếc lời ca ngợi Phần Lan hóa trước giới tinh hoa an ninh.

Hiệp ước Liên Xô-Đức năm 1939, nhằm phân chia Đông Âu giữa hai cường quốc, đã đặt Phần Lan vào phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô. Khi bị quân đội Liên Xô xâm lược vào cuối tháng 11 năm đó, người Phần Lan đã phản công và tránh được số phận mà nhà lãnh đạo Liên Xô Joseph Stalin định sẵn cho họ. Sau đó, với Hiệp định đình chiến Moscow năm 1944, Phần Lan chấp nhận từ bỏ gần 12% lãnh thổ của mình để đạt được hòa bình và duy trì độc lập. Cho đến nay, tình trạng đó vẫn chưa thay đổi.

Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ hơn, Phần Lan có lẽ mang giá trị cảnh báo hơn là hình mẫu. Phép so sánh này ngay từ đầu đã rất đáng ngờ: So với Ukraine, Phần Lan là một quốc gia nhỏ bé, chỉ có lợi ích chiến lược thấp đối với Moscow. Khác với Phần Lan năm 1944, Ukraine ngày nay là trọng tâm duy nhất trong hoạt động chiến tranh của Nga. Hồi năm 1944, Liên Xô thực sự đặt mục tiêu chấm dứt chiến tranh với Phần Lan, nhưng ngày nay, giới lãnh đạo Nga đã thể hiện rõ tham vọng chinh phục Ukraine và nhiều nơi khác.

Ukraina, chứ không phải Phần Lan, giữ một vị trí quan trọng, thậm chí mang tính huyền thoại, trong cách người Nga hiểu về dự án đế quốc của họ. Kể từ thời Sa hoàng đến nay, Moscow chưa bao giờ đặt câu hỏi về sự tồn tại của quốc gia, ngôn ngữ, và văn hóa Phần Lan – hoàn toàn trái ngược với quan điểm của Nga về Ukraina. Một Phần Lan độc lập không phải là rào cản đối với tham vọng của Liên Xô ở bất kỳ nơi nào khác, nhưng một Ukraina độc lập lại là đòn giáng mạnh vào nỗ lực khôi phục đế chế thời Liên Xô của Nga.

Dù vậy, vẫn có thể áp dụng ví dụ Phần Lan sang cho Ukraine – nhưng chỉ khi chúng ta bổ sung thêm hai sửa đổi đáng kể. Người Phần Lan được sống trong hòa bình vì đất nước của họ không phải là trọng tâm trong chiến lược địa chính trị của Điện Kremlin – điều rõ ràng không đúng với Ukraine ngày nay. Do đó, một Ukraine hùng mạnh và được vũ trang đầy đủ là điều kiện tiên quyết để duy trì hòa bình theo kiểu Phần Lan. Sự thật là sẽ khó răn đe Nga hơn ở Ukraine, theo đó đòi hỏi Ukraine phải trang bị vũ khí mạnh mẽ, và được đảm bảo an ninh và hỗ trợ lâu dài của phương Tây – điều mà Phần Lan đã không có được sau năm 1944.

Phần Lan cũng tránh được một cuộc xâm lược khác nhờ sự kết hợp giữa bối cảnh địa chính trị rộng hơn và sự chuẩn bị phòng thủ của chính họ – chứ không phải nhờ thái độ thân thiện với Liên Xô, như bài báo ngày 01/09 của tờ Economist đã ám chỉ sai lầm. Dù về mặt chính thức họ vẫn giữ thái độ trung lập, nhưng Helsinki đã duy trì lực lượng phòng thủ vững chắc và một đội quân dự bị hùng hậu xuyên suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Giống như người Ukraine ngày nay, người Phần Lan đã thể hiện mình là bậc thầy về chiến tranh và có thừa khả năng gây ra tổn thất nặng nề cho quân đội của Điện Kremlin.

Thứ hai, Phần Lan đồng ý nhượng bộ lãnh thổ vĩnh viễn và về pháp lý (de jure) vào thời điểm toàn bộ bản đồ châu Âu đang được vẽ lại sau Thế chiến II. Khi đó, hàng chục triệu người đã phải chịu cảnh cưỡng bức di dời, mất nhà cửa, sinh kế, và thậm chí là cả mạng sống. Chính vì không muốn quay trở lại thời kỳ đó, nên một trong những nguyên tắc cốt lõi của trật tự quốc tế hậu Thế chiến II là nghiêm cấm việc thay đổi biên giới bằng các cuộc chinh phạt.

Châu Âu rõ ràng không muốn quay lại thời điểm Hiệp định Đình chiến Moscow, khi mà trật tự hậu chiến vẫn chưa tồn tại. Do đó, bất kỳ đường biên giới mới nào giữa Nga và Ukraine cũng không nên được công nhận về pháp lý (de jure) như trường hợp của Phần Lan, mà chỉ nên được công nhận trên thực tế (de facto) – như những khu vực do Nga quản lý, đang chờ giải pháp cuối cùng. Cuộc xâm lược và tội ác chiến tranh của Nga không thể được tưởng thưởng.

Hơn nữa, yêu cầu của Nga về việc chiếm toàn bộ khu vực Donbas, bao gồm cả những vùng lãnh thổ rộng lớn mà Nga đã nỗ lực nhưng không thể chinh phục kể từ lần đầu tiên đưa quân vào khu vực này vào năm 2014, cần phải bị bác bỏ một cách kiên quyết. (Yêu cầu này đã bị Điện Kremlin và Nhà Trắng gọi một cách sai lệch là “trao đổi đất đai”). Những vùng lãnh thổ này chứa đựng các công sự phòng thủ quan trọng của Ukraine; việc nhượng lại chúng cho Nga sẽ làm suy yếu nghiêm trọng khả năng bảo vệ vùng đất trung tâm của Ukraine.

Ngoài ra, còn có những tiền lệ lịch sử khác hữu ích hơn. Việc phân chia Đức và Bán đảo Triều Tiên sau Thế chiến II là những trường hợp mà một đường biên giới mới được vạch ra trên thực tế và được các cường quốc liên quan tôn trọng, dù biên giới này chưa bao giờ được phê chuẩn là biên giới quốc tế vĩnh viễn. Ngoại trừ Chiến tranh Triều Tiên và những cuộc giao tranh lẻ tẻ tại khu phi quân sự chia cắt bán đảo, hòa bình đã được duy trì trong cả hai trường hợp. Ở châu Âu, hòa bình được duy trì cho đến năm 1990, khi một hiệp ước thống nhất nước Đức và chính thức chấm dứt Thế chiến II. Ở Đông Á, hòa bình vẫn được duy trì cho đến ngày nay, dù hai miền Triều Tiên chưa bao giờ ký hiệp ước hòa bình và do đó, về mặt kỹ thuật, vẫn trong tình trạng chiến tranh.

Hai tiền lệ này cho thấy rõ ràng rằng việc thay đổi biên giới về pháp lý không phải là điều kiện tiên quyết cho một nền hòa bình lâu dài và ổn định. Bên cạnh đó, căng thẳng vẫn ở mức cao giữa hai miền Triều Tiên cho thấy nguy cơ một thỏa thuận tồi tệ ở Ukraine có thể làm tăng khả năng leo thang căng thẳng trở lại.

Quay trở lại trường hợp của Phần Lan, những rủi ro liên quan cần được đặc biệt chú ý khi xem xét triển vọng hòa bình ở Ukraine.

Phần Lan không chỉ từ bỏ một vùng lãnh thổ rộng lớn, mà còn phải bồi thường một khoản chiến phí khổng lồ và chấp nhận những hạn chế về chủ quyền và lực lượng vũ trang. Đó chắc chắn không phải là một nền hòa bình công bằng. Và Liên Xô cũng không có ý định biến nó thành một nền hòa bình bền vững. Điện Kremlin vẫn muốn Phần Lan hoàn toàn quy phục mình, ngay cả khi họ không có ý định sáp nhập phần còn lại của đất nước. Moscow đã nỗ lực hết sức để đạt được điều này thông qua cái gọi là các biện pháp chủ động – mà ngày nay được đặt tên là chiến tranh hỗn hợp – như can thiệp bầu cử, gây sức ép yêu cầu bổ nhiệm các bộ trưởng thân Moscow, ủng hộ những người cộng sản Phần Lan, cũng như kích động các cuộc đình công và biểu tình đường phố của công nhân. Moscow chắc chắn sẽ sử dụng những biện pháp này và nhiều biện pháp khác để cố gắng đưa Kyiv vào tầm kiểm soát chính trị của mình ngay cả sau khi đạt được thỏa thuận hòa bình.

Từ góc nhìn của Ukraine, những mục tiêu tối đa mà Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky vạch ra trong kế hoạch hòa bình năm 2022 có lẽ không còn thực tế nữa. Hiện tại, đa số người dân Ukraine thừa nhận trong các cuộc thăm dò rằng họ không thể giải phóng các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng bằng các biện pháp quân sự trong tương lai gần. Và phương Tây phải chịu trách nhiệm cho kết quả này – đặc biệt là chính quyền Biden, những người đã cắt giảm viện trợ và làm chậm cuộc phản công của Ukraine khi Nga ở thế yếu nhất vào cuối năm 2022 và đầu năm 2023. Từ đó đến nay, Nga đã củng cố sức mạnh quân sự, trong khi Ukraine ngày càng kiệt quệ.

Zelensky đã thừa nhận sự cần thiết phải nhượng bộ vào tháng 3 năm nay, khi ông đồng ý với đề xuất của Mỹ về một lệnh ngừng bắn vô điều kiện. Quan ngại chính đối với việc đóng băng tiền tuyến hiện tại và để các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng nằm yên dưới sự kiểm soát của Nga là điều này sẽ cho phép Nga có thời gian phục hồi và chuẩn bị cho cuộc tấn công tiếp theo. Trump đã rút lại yêu cầu ngừng bắn sau các cuộc điện đàm với Tổng thống Nga Vladimir Putin, cho phép Nga tiếp tục giết hại binh lính và thường dân Ukraine chừng nào các cuộc đàm phán hòa bình còn đang được chuẩn bị và tiến hành. Putin đã không tỏ ra sẵn sàng nhượng bộ, còn Trump thì bỏ lỡ mọi cơ hội để gây áp lực mạnh mẽ lên Tổng thống Nga.

Liệu Ukraine có thể tiếp tục là một quốc gia độc lập và dân chủ sau khi nhượng lại các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng – dù chỉ trên thực tế – hay không phụ thuộc rất nhiều vào hành động của những người ủng hộ phương Tây của nước này. Người Ukraine phải tự quyết định họ sẵn sàng chấm dứt chiến sự trong điều kiện nào, nhưng những vấn đề quan trọng nhất đối với châu Âu lại vượt xa Ukraine. Thỏa thuận hòa bình cuối cùng cần phải mang lại an ninh không chỉ cho Ukraine mà còn cho các quốc gia Baltic, Ba Lan, Phần Lan, và phần còn lại của châu Âu.

Thay vì thúc ép Ukraine chấp nhận một thỏa thuận tồi tệ, việc tăng cường hỗ trợ cho Ukraine chính là vì lợi ích của châu Âu, nhằm ngăn thỏa thuận tồi tệ đó gây ra những hậu quả nguy hiểm cho châu Âu. Các đối tác của Ukraine không thể mạo hiểm với một thỏa thuận kiểu Phần Lan, và bỏ mặc Ukraine tự mình đối phó với Điện Kremlin.

Kristi Raik là Giám đốc Trung tâm Quốc phòng và An ninh Quốc tế tại Tallinn, Estonia.

“Phần Lan hóa” là gì?