Nguồn: New Japanese constitution goes into effect, History.com
Biên dịch: Lê Hồng Loan | Biên tập: Lê Hồng Hiệp
Vào ngày này năm 1947, bản hiến pháp hậu chiến của Nhật Bản bắt đầu có hiệu lực. Bản hiến pháp tiến bộ đã trao quyền bầu cử phổ quát, tước bỏ mọi quyền lực của Hoàng đế Hirohito, trừ những quyền lực mang tính tượng trưng, đưa ra một danh sách các quyền con người cơ bản, xóa bỏ giới quý tộc và quyền gây chiến của Nhật Bản. Bản hiến pháp này phần lớn là tác phẩm của vị Tư lệnh Tối cao của lực lượng Đồng minh Douglas MacArthur và các nhân viên đóng tại Nhật của ông, những người đã chuẩn bị dự thảo vào tháng 02 năm 1946 sau khi một bản thảo của Nhật Bản bị coi là không thể chấp nhận được.
Là người giúp bảo vệ Philippines trước quân Nhật từ năm 1941 đến 1942, và là chỉ huy của lực lượng Đồng minh tại chiến trường Tây Nam Thái Bình Dương từ năm 1942 đến 1945, Douglas MacArthur là vị tướng Mỹ có nhiều thành tích nhất trong cuộc chiến chống Nhật Bản. Vào ngày 02 tháng 09 năm 1945, trên tàu USS Missouri ở Vịnh Tokyo, ông đã chủ trì lễ đầu hàng chính thức của Nhật Bản. Theo các điều khoản đầu hàng, Hoàng đế Hirohito và chính phủ Nhật Bản phải tuân phục sự lãnh đạo của Tư lệnh tối cao Lực lượng Đồng minh ở Nhật Bản, vị trí sau này do Tướng MacArthur nắm giữ.
Vào ngày 08 tháng 09, MacArthur đã di chuyển bằng ô tô qua những đống đổ nát của Tokyo đến đại sứ quán Mỹ, nơi ông ở trong năm năm rưỡi sau đó. Việc chiếm đóng trên danh nghĩa là nhiệm vụ của lực lượng Đồng minh, nhưng sự gia tăng chia rẽ trong Chiến tranh Lạnh đã khiến Nhật Bản rơi vào phạm vi ảnh hưởng chủ yếu của Hoa Kỳ. Từ Tổng hành dinh của mình, nhìn ra Cung điện Hoàng gia ở trung tâm Tokyo, MacArthur đã chủ trì một cuộc tái thiết cực kỳ hiệu quả đối với chính phủ, ngành công nghiệp và xã hội Nhật Bản theo các mô hình của Hoa Kỳ. MacArthur là một lãnh đạo tài năng, và những cải cách tiến bộ của ông hầu hết được người dân Nhật Bản hoan nghênh.
Cải cách quan trọng nhất được thực hiện trong thời kỳ chiếm đóng của Hoa Kỳ là thành lập một hiến pháp mới để thay thế Hiến pháp Meiji 1889. Đầu năm 1946, chính phủ Nhật đã đệ trình một dự thảo hiến pháp mới lên Tổng hành dinh, nhưng nó đã bị bác bỏ vì quá bảo thủ. MacArthur đã ra lệnh cho các nhân viên trẻ của mình phác thảo một bản hiến pháp khác trong một tuần. Tài liệu này, được đệ trình lên chính phủ Nhật Bản vào ngày 13 tháng 02 năm 1946, bảo vệ các quyền tự do dân sự mà MacArthur đã giới thiệu và duy trì vị trí hoàng đế, mặc dù hoàng đế sẽ bị tước bỏ nhiều quyền lực. Điều 9 cấm người Nhật không bao giờ được tiến hành chiến tranh một lần nữa.
Trước khi Nhật Bản đầu hàng, Hoàng đế Hirohito chính thức được coi là người cai trị tuyệt đối của Nhật Bản và là một nhân vật á thần. Mặc dù quyền lực của ông bị hạn chế rất nhiều trong thực tế, nhưng ông vẫn được chính phủ Nhật Bản tham khảo ý kiến và đã chấp thuận các chính sách bành trướng của Nhật từ năm 1931 đến Thế chiến II. Hirohito lo sợ, với lý do chính đáng, rằng ông có thể bị truy tố là tội phạm chiến tranh và hoàng gia Nhật Bản sẽ bị xóa bỏ. Bản Hiến pháp của MacArthur duy trì hoàng đế như là “biểu tượng của quốc gia và sự đoàn kết của nhân dân” và đã khiến Hirohito ủng hộ nó. Những người bảo thủ trong chính phủ tỏ ra kém nhiệt tình hơn, nhưng vào ngày 10 tháng 04 năm 1946, bản hiến pháp mới đã được ủng hộ trong các cuộc bầu cử phổ thông vốn lần đầu cho phép phụ nữ Nhật có quyền bỏ phiếu. Bản dự thảo cuối cùng, được sửa đổi một chút bởi chính phủ Nhật Bản, đã được công bố một tuần sau đó. Vào ngày 03 tháng 11, nó được phê chuẩn bởi Nghị viện Nhật Bản (Diet) – và vào ngày 03 tháng 05 năm 1947, hiến pháp bắt đầu có hiệu lực.
Năm 1948, các cuộc bầu cử đã đưa Yoshida Shigeru lên làm thủ tướng đã mở ra kỷ nguyên Yoshida, được đánh dấu bởi sự ổn định chính trị và tăng trưởng kinh tế nhanh chóng ở Nhật Bản. Năm 1949, MacArthur đã trao phần lớn quyền hành của mình cho chính phủ Nhật Bản và vào tháng 09 năm 1951, Hoa Kỳ và 48 quốc gia khác đã ký một hiệp ước hòa bình chính thức với Nhật. Vào ngày 28 tháng 04 năm 1952, hiệp ước có hiệu lực và Nhật Bản đã lấy lại toàn bộ chủ quyền khi sự chiếm đóng của quân Đồng minh chấm dứt.