Tác giả: Nguyễn Hải Hoành
Nước Nam Việt (南越国 hoặc 南粤国) là một vương quốc ở vùng đông nam Trung Quốc do Triệu Đà lập ra năm 204 TCN. Sử Trung Quốc coi vương triều Nam Việt là một chính quyền cát cứ địa phương, không thuộc vương triều chính thống. Có lẽ vì thế mà tư liệu về nước Nam Việt đã rất ít lại quá sơ sài.
Dù chỉ tồn tại 93 năm và đã biến mất 21 thế kỷ qua nhưng Nam Việt quốc vẫn còn duyên nợ với Việt Nam ta. Phải chăng vì hai nước có tên gọi giống nhau hay vì ở liền kề nhau? Cớ sao một số nhà chính trị và sử gia nổi tiếng Việt Nam xưa và nay coi nhà Triệu là vương triều đầu tiên của nước ta, nhưng giới sử học chính thống Việt Nam hiện nay lại coi nhà Triệu là kẻ đầu tiên xâm chiếm nước ta, mở đầu thời kỳ Bắc thuộc?
Tìm hiểu nước Nam Việt nhằm giải đáp mấy câu hỏi trên sẽ giúp chúng ta nhận thức rõ nguồn gốc tổ tiên mình và mối quan hệ Việt Nam-Trung Quốc, cũng như giúp chấm dứt cuộc tranh cãi về vai trò của nhà Triệu đối với nước ta.[1]
Cuốn “Lịch sử nước Nam Việt” (南越国史Nam Việt quốc sử, NVQS)[2] đã phần nào đáp ứng yêu cầu đó. Tuy NVQS đã tham khảo 975 tài liệu, gồm 113 tài liệu nước ngoài (60 của Việt Nam) nhưng các tài liệu ấy có chỗ chưa nhất quán với nhau, sao chép lẫn nhau và lời lẽ khó hiểu, lại viết quá sơ sài về nước ta. Sách cổ sử Trung Quốc chủ yếu viết về hành trạng của các nhân vật, ít viết các vấn đề tổng quan, đã thế cách viết lại khó hiểu. Đọc NVQS cùng các tài liệu liên quan, chúng tôi cảm thấy dường như việc nghiên cứu nước Nam Việt nên dựa trên suy luận, phỏng đoán hơn là dựa vào thư tịch.
Với suy nghĩ như vậy, dưới đây xin nêu ra vài ý kiến về mối quan hệ Nam Việt – Việt Nam. Các ý kiến này khó tránh khỏi có sai sót, mong được bạn đọc chỉ bảo.
Đất Nam Việt và đất Việt Nam
Sách cổ sử Trung Quốc ít chú trọng vấn đề cương vực, ít lập bản đồ. Sách NVQS 503 trang không có lấy một bản đồ nước Nam Việt. Dù sao ai cũng biết rằng trước khi có cái tên Việt Nam thì trên dải đất dài hẹp được núi và biển bọc kín bốn mặt ở phía nam nước Nam Việt từ cổ xưa đã tồn tại một tộc người về sau gọi là người Kinh-Việt Nam, tức tổ tiên chúng ta.[3] Tộc người này có các tố chất chủng tộc, ngôn ngữ và văn hóa khác hẳn các tộc người sống trên vùng đất liền kề ở phía bắc, về sau được gọi là Trung Quốc. Sự khác biệt ấy khiến cho người Kinh-Việt Nam sau khi bị người Trung Quốc đông dân và mạnh hơn xâm chiếm đã không ngừng đấu tranh đánh đuổi kẻ xâm lược và cuối cùng giành độc lập trọn vẹn.
“Sử ký” chép: năm thứ 33 (214 TCN), Tần Thủy Hoàng chiếm Lục Lương tức Lĩnh Nam và chia làm 3 quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng. Theo NVQS, cho tới nay giới sử học vẫn chưa nhất trí về vấn đề quận Tượng đời Tần có ở trên đất Việt Nam hay không — nghĩa là nhà Tần có chiếm Việt Nam hay không. Ở đây có hai quan điểm khác nhau.
Một quan điểm cho rằng quận Tượng đời Tần gồm Bắc bộ và Trung bộ Việt Nam. Sau đó nhà Tần diệt vong nên [tên gọi] quận Tượng biến mất nhưng đất của nó vẫn bao gồm 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam (do Hán Vũ Đế lập năm 111 TCN); nước Nam Việt thời kỳ đầu (Hán sơ) cũng sở hữu đất 3 quận đó. Nói cách khác, quận Tượng đời Tần nằm trên đất Việt Nam, nghĩa là nhà Tần đã chiếm Việt Nam. NVQS gọi quan điểm này là Thuyết Ba Quận. Đây là quan điểm chính thống của sử học Trung Quốc trước năm 1916.
Một quan điểm khác được NVQS gọi là Thuyết Hai quận do sử gia Pháp Maspero[4] ở Viện Viễn đông Bác cổ Hà Nội đưa ra năm 1916, cho rằng quận Tượng do nhà Tần lập ra là ở hai quận Uất Lâm (Yulin) và Tang Kha (Zangke) thuộc Quảng Tây. Lâm Trần [Linchen] nơi đặt trụ sở chính quyền quận thì ở quận Uất Lâm. Nói cách khác, quận Tượng đời Tần ở trên đất Trung Quốc, nghĩa là nhà Tần chưa hề chiếm Việt Nam. NVQS cho rằng hai thuyết trên trái ngược nhau là do khác nhau về khảo chứng các sử liệu.
Maspero có tham khảo “Hán thư – Chiêu đế kỷ”, “Hán thư – Cao đế kỷ”, “Giao châu Ngoại vực ký”. Ông nói đất Giao Chỉ (lưu vực sông Hồng) không ở quận Tượng mà ở phía nam quận Tượng, vốn là nước An Dương của Hoàng tử Thục [Thục Phán?]. Thời Lữ Hậu (195-180 TCN) hoặc Hán Văn Đế (180-157 TCN), nước Nam Việt diệt nước An Dương rồi đặt hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân trên đất Việt Nam; nghĩa là không có việc chia quận Tượng làm hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân khi thành lập nước Nam Việt.
Theo NVQS, sử gia Đào Duy Anh và các sử gia Trung Quốc Mông Văn Thông, Đàm Kỳ Tương, Châu Trấn Hạc tán thành Thuyết Hai quận; còn đa số sử gia Trung Quốc theo Thuyết Ba quận.
NVQS cho rằng Thuyết Ba quận hợp lý vì dựa theo “Hán thư – Địa lý chí” của Ban Cố. Trong đó từ “Nhật Nam quận” có ghi chú 11 chữ “故秦象郡,元鼎六年开,更名” [Cố Tần Tượng quận, Nguyên Đỉnh lục niên khai, cánh danh]. Tạm hiểu: “(Quận Nhật Nam) trước kia là quận Tượng đời Tần, (quận Nhật Nam) lập năm Nguyên Đỉnh 6 (tức năm 111 TCN), đổi tên (từ quận Tượng) mà thành.” Vì quận Nhật Nam ở Trung bộ Việt Nam nên quận Tượng đời Tần ở trên đất Việt Nam.
Theo chúng tôi, chỉ dựa vào 11 chữ ghi chú của Ban Cố mà suy ra kết luận đó là chưa đủ thuyết phục. Vả lại quận Nhật Nam là do Triệu Đà lập ra sau khi chiếm Âu Lạc (179 TCN), không phải do Vũ Đế lập ra năm 111 TCN.
NVQS viết: Tuy các sách sử khác đều không viết về vị trí quận Tượng, nhưng do “Hán thư” có uy tín cao nên Thuyết Ba quận trở thành quan điểm chính thống của Trung Quốc suốt hơn 2000 năm… Các ghi chép lịch sử cho thấy quân Tần đã vào tận Trung bộ Việt Nam (khoảng vĩ tuyến 13-16) và đặt quận Tượng ở đây. Sách “Hoài Nam Tử-Nhân gian huấn” chép: Quân Tần giết được Dịch Dụ Tống [Yi Yusong] vua nước Tây Âu, người Việt không chịu để bị quân Tần bắt mà vào rừng sống chung với cầm thú… đêm đến ra phục kích quân Tần, hạ sát Đồ Tuy, giết mấy chục vạn lính Tần… Vì NVQS coi Tây Âu là Việt Nam, nên việc quân Tần giết vua Tây Âu có nghĩa là nhà Tần đã chiếm Việt Nam.
Nhận định trên cũng thiếu tin cậy, bởi lẽ chưa sách nào nói rõ vị trí nước Lạc Việt, nước Tây Âu và lai lịch Dịch Dụ Tống. Trong bài “Giải mật Tây Âu quốc – nước thứ tư của 10 đại cổ quốc Quảng Tây”[5] thì Tây Âu (còn gọi Tây Việt) là nước bộ lạc ở vùng lưu vực sông Quế Giang, Tầm Giang thuộc Lĩnh Nam – nghĩa là ở Quảng Tây. Các tư liệu trên mạng baidu cũng viết như vậy. Sử sách Việt Nam chưa hề nói tới cái tên “Dịch Dụ Tống vua nước Tây Âu” và địa danh Lâm Trần. Thực ra Lĩnh Nam cũng như Việt Nam hồi ấy là đất của nhiều bộ lạc, chưa có khái niệm quốc gia (nước) và sự phân định biên giới. NVQS chưa nói rõ đất Việt Nam ngày ấy gọi là Tây Âu, Tây Ẩu, Lạc Việt hay Âu Lạc? Tây Âu quân [vua] Dịch Dụ Tống có phải là người Kinh-Việt Nam không? Khi còn chưa biết rõ vị trí địa lý và tộc người Việt Nam sao có thể nói nhà Tần chiếm Việt Nam?
Sách “Nghiên cứu Phương quốc Lạc Việt”[6] cũng không viết về việc quân Tần chiếm Việt Nam, mà chỉ cho biết: khi bị quân Tần tấn công, người Lạc Việt ở Quảng Tây [không nói là người Việt Nam] đã vào rừng đánh du kích, giết Đồ Tuy. Sách sử Việt Nam cũng chưa hề viết Đồ Tuy bị giết trên đất Việt Nam.
NVQS nhận định: nhiều di vật khảo cổ khai quật được tại Việt Nam chứng minh các lực lượng chính trị Trung Quốc đời Tần đã vào đến Việt Nam. Theo chúng tôi, lập luận này chưa xác đáng vì trong 1.000 năm Bắc thuộc cũng như trong các lần xâm lược Việt Nam, người Trung Quốc có thể đem những đồ vật làm từ đời Tần chôn ở nhiều nơi trong nước ta để đánh dấu họ từng đến đây (tại Malaysia từng có chuyện tương tự).
NVQS viết: các thư tịch cổ Maspero trích dẫn không tin cậy. Chuyện An Dương Vương dùng nỏ thần chống quân Triệu Đà, chuyện Mỵ Châu – Trọng Thủy… đều là thần thoại. Thực ra là Hoàng tử Thục [Thục Phán?] dẫn bộ tộc mình di chuyển từ tây sang đông thì xung đột với bộ tộc Lạc Việt. Thục chiến thắng, trở thành thủ lĩnh bộ tộc Lạc Việt và tự xưng An Dương Vương. Thuyết Hai quận nói một thời gian sau ngày lập quốc, Triệu Đà dẫn quân đánh chiếm Lĩnh Nam, bộ tộc An Dương Vương chống lại, gây cho Đà nhiều tổn thất nhưng cuối cùng Đà thắng – chuyện đó xảy ra vào thời Lữ Hậu, Văn Đế.
NVQS cho rằng nhận định đó thiếu căn cứ. “Sử ký” có chép việc Tây Âu, Lạc Việt lệ thuộc Nam Việt, nhưng đó không phải là kết quả xung đột quân sự mà là do Triệu Đà hối lộ các nước này, và sách cũng không nói rõ tộc Lạc Việt đó có phải là tộc An Dương Vương hay không. Hơn nữa do thi hành “Hòa tập Bách Việt” nên Triệu Đà không thể dùng chiến tranh để giải quyết vấn đề dân tộc trong nước mình. Ngược lại, sách sử cho biết cuộc chiến chiếm hai quận Quế Lâm và Tượng do Triệu Đà tiến hành (chắc là vào năm 205 TCN) thì xảy ra trước khi Triệu Đà lập nước Nam Việt.
Theo chúng tôi, quận Tượng đời Tần toàn bộ ở trên đất Trung Quốc, không ở đất Việt Nam; nhà Tần chưa hề chiếm nước ta; nhà Triệu là vương triều Trung Quốc đầu tiên thôn tính Việt Nam.
Lý do: sau khi chiếm Lĩnh Nam, nhà Tần không còn đủ sức tiến đánh Việt Nam. Trước khi đánh Lĩnh Nam, nhà Tần đã làm 2 con đường từ Trung Nguyên tới Lĩnh Nam thế mà vẫn không tiếp tế kịp lương thực ra mặt trận. Phần trên đã nói, “Hoài Nam Tử” kể: Trong trận tấn công Quảng Tây, nhà Tần thất bại thảm hại, thương vong mấy chục vạn quân và phải ngừng tấn công, bỏ ra mấy năm đào kênh Linh Cừ nhằm giải quyết việc chở lương thực từ Trung Nguyên ra mặt trận. Việt Nam ở rất xa Lĩnh Nam, lại càng xa Trung Nguyên. Từ Lĩnh Nam đi Việt Nam không có đường, chỉ có chặt cây leo núi qua thập vạn đại sơn, không thể bảo đảm tiếp tế lương thực. Sau thiệt hại lớn ở Quảng Tây, nhà Tần còn lính đâu, sức đâu mà tiến xuống Việt Nam. Chỉ sau khi lập nước Nam Việt ít lâu, Triệu Đà mới chiếm Việt Nam, và có lẽ Đà không gây chiến mà dùng cách mua chuộc. Việc này chưa có tư liệu xác thực làm căn cứ. Giới sử học nước ta có lý khi cho rằng thời kỳ Bắc thuộc bắt đầu vào khoảng năm 179 TCN. Tác giả NVQS chưa chú ý tới quan điểm này.
Người Nam Việt và người Việt Nam
Sử Trung Quốc cổ đại gọi tộc người sống ở Trung Nguyên (lưu vực Hoàng Hà và Trường Giang, về sau gọi là Trung Quốc) là người Hoa Hạ — trong bài này, để tiện, sẽ gọi không chính xác là người Hán — các tộc còn lại là Man Di. Người Hán gọi tất cả các tộc người ở phía nam Trường Giang là tộc Việt, người Việt (Việt tộc, Việt nhân). Không may là bộ tộc người Kinh – Việt Nam ở vào vị trí địa lý ấy nên bị gọi vơ đũa cả nắm là người Việt. Từ đó trở đi sử Trung Quốc và sử ta ngày xưa (chủ yếu chép theo sử Trung Quốc) đều nói người Kinh – Việt Nam là người Bách Việt hoặc Lạc Việt; nói mãi, tự nhiên quan điểm đó trở thành chính thống!
Việt tộc trong sử Trung Quốc là một khái niệm tù mù, có những giải thích khác nhau. Theo NVQS, Việt tộc ở Lĩnh Nam có các tên gọi: Bách Việt, Dương Việt, Ngoại Việt, Lục Lương, Nam Việt, Tây Âu, Lạc Việt… . Tộc Tây Âu hoặc Tây Ẩu chủ yếu sống ở Quảng Tây, nhưng sử gia Đào Duy Anh nói họ cũng sống ở Việt Nam (thượng lưu sông Lô, sông Cẩm[?], sông Cầu, sông Thương). NVQS không phân tích các yếu tố làm nên bản sắc của mỗi dân tộc, như tiếng nói, phong tục tập quán… mà viết liều: Tộc Lạc Việt sống ở Quảng Tây, Quý Châu và châu thổ sông Hồng Việt Nam — nói như vậy NVQS coi người Lạc Việt là người Kinh – Việt Nam, bởi lẽ người ở châu thổ sông Hồng chỉ có thể là Kinh – Việt Nam. Nhưng nói người Kinh – Việt Nam sống ở Quảng Tây, Quý Châu là sai sự thực. Hơn nữa tài liệu[7] viết: Người Lạc Việt là tổ tiên của người Tráng Quảng Tây; và ta biết ngôn ngữ Tráng khác xa ngôn ngữ Kinh-Việt Nam. Tóm lại, NVQS đã hoàn toàn sai khi coi người Kinh-Việt Nam là người Lạc Việt.
Cái tên gọi chung “Việt” ấy đã gây ra sự nhầm lẫn người Việt ở nước Nam Việt với người Kinh-Việt Nam. Như khi sử Trung Quốc viết Triệu Đà theo phong tục Việt, lấy vợ người Việt, Lữ Gia là người Việt [thực ra là người Bách Việt] nhưng có sử gia ta quả quyết rằng Đà lấy vợ người làng Đồng Sâm huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình, Lữ Gia là người Quốc Oai, Sơn Tây (xem chú thích 1; chuyện ấy có thể xuất phát từ tâm lý ưa gắn kết Việt Nam với Trung Quốc).
Chỉ cần xét vài lý do sau đây là đủ thấy sự hư cấu này thậm vô lý: Sau ngày bắt đầu Bắc thuộc (179 TCN) ít nhất dăm chục năm, chữ Hán mới được dạy cho dân ta; thời đầu nhà Triệu, dân ta chưa ai biết tiếng Hán, sao lại có người (Lữ Gia) giỏi Hán ngữ làm tới chức Thừa tướng 3 đời vua nhà Triệu? Mãi đến thế kỷ 18 Nguyễn Công Trứ mới đưa dân ra lập huyện Tiền Hải (Thái Bình), bởi lẽ trước Công nguyên, tỉnh Thái Bình còn ở dưới đáy biển (xem hình dưới), sao mà hồi ấy đã có làng mạc trù phú sinh ra những cô gái xinh đẹp giỏi tiếng Hán được vua Triệu kén làm vợ?
Xét về địa lý, tộc Kinh-Việt Nam sống trên mảnh đất cách xa cộng đồng Bách Việt hàng ngàn dặm, lại có núi và biển ngăn cách, sao có thể là thành viên của cộng đồng ấy được? Hơn nữa tiếng nói của người Kinh-Việt Nam (thuộc ngữ hệ Nam Á) khác xa người Bách Việt (thuộc ngữ hệ Hán-Tạng), sao có thể sống chung trong một cộng đồng được?
Thực ra “người Việt” trong sách sử Trung Quốc là người Bách Việt, có ngôn ngữ gần gũi với Hán ngữ của người Hán (cùng ngữ hệ Hán-Tạng), một số tộc như Dương Việt, Mân Việt… nói các phương ngữ của Hán ngữ. Vì thế nên người Bách Việt nhanh chóng học được tiếng Hán và chữ Hán. Còn tộc Kinh-Việt Nam dù bị người Hán ra sức đồng hóa suốt 1.000 năm nhưng do dị biệt ngôn ngữ quá lớn (và do các nguyên nhân khác) nên về cơ bản chẳng hề bị Hán hóa. Riêng một sự thực lịch sử bất hủ ấy đủ chứng tỏ tộc Kinh-Việt Nam hoàn toàn không thuộc cộng đồng các tộc Bách Việt, không phải là “Việt nhân” của nước Nam Việt (vấn đề này chúng tôi sẽ viết riêng trong một chuyên luận khác).
Triệu Đà với Việt Nam
NVQS viết rất ít về mối quan hệ này, có lẽ vì Triệu Đà chẳng quan tâm tới xứ Việt Nam xa xôi cách trở. Theo chúng tôi, nước Nam Việt quốc khi mới lập quốc hoàn toàn ở trên đất Trung Quốc. Sau lần thứ hai thần phục nhà Hán (179 TCN), khi không còn nguy cơ bị Hán tấn công nữa, Triệu Đà mới chiếm Âu Lạc (tức Việt Nam?). Vì thế có thể coi thời kỳ Bắc thuộc bắt đầu từ năm 179 TCN. NVQS viết: Triệu Đà sau khi xưng vương đã cho quân đánh An Dương Vương và chinh phục bộ tộc Lạc Việt, nhưng sau đó cũng để họ tự trị.
Đối với người Việt Nam thì Tần Thủy Hoàng, Triệu Đà, Hán Vũ Đế đều là kẻ ngoại bang; kẻ nào xâm chiếm nước ta đều như nhau. Thời ấy người Hán đều ngại sang Việt Nam làm việc, triều đình thường cử các quan lại bị cách chức hoặc phạm tội sang ta. Bọn họ số người đã ít, sang đây lại đều lấy vợ Việt Nam, hòa nhập với người bản xứ và bị Việt hóa, vì thế một số người đối xử tốt với dân ta, cai trị tương đối lỏng lẻo.
Cần thấy rằng Triệu Đà thi hành chính sách Hòa tập Bách Việt tại Nam Việt và Việt Nam đâu phải vì ông ta tốt bụng, mà chỉ vì hai vùng này ít người Hán trong khi các bộ tộc bản xứ có thế lực mạnh. Hơn nữa người Hán ở đây không phục Đà, vì y là tướng nhà Tần mà không phò Tần, về sau lại chống Hán – tức chống vương triều trung ương. Do đó Đà phải dựa vào người bản xứ và để họ tự trị một phần.
Nhà Triệu đóng đô ở Quảng Châu rất xa biên giới Trung Quốc – Việt Nam; quan lại và quân đội của triều đình đều là người Hán hoặc người Bách Việt, không hề có người Kinh-Việt Nam, rõ ràng là kẻ xâm chiếm và thống trị nước ta, không thể coi là vương triều của nước ta. Sử gia Ngô Thì Sĩ, các học giả Phan Khôi,[8] Phạm Quỳnh cũng từng nói như vậy.
Đúng là ở ta có những đền miếu thờ người Trung Quốc như thờ Triệu Đà, Lữ Gia v.v…Điều đó không có gì lạ. Suốt hàng nghìn năm trong và sau Bắc thuộc không ít quan lại các vương triều Trung Quốc bị lật đổ hoặc con cháu họ phải trốn sang Việt Nam định cư rồi bị Việt hóa, làm thành các dòng họ Triệu, Lữ (Lã) v.v…và họ dựng đền, tạc tượng thờ tổ tiên mình. Các đền và tượng ấy lâu nhất chỉ mới ra đời vài trăm năm nay. Những người được thờ không phải là người Việt Nam; vì thế chớ nhầm lẫn coi đó là tín ngưỡng của dân ta.
Tóm lại, NVQS và sách sử Trung Quốc đều truyền bá quan điểm người Kinh-Việt Nam thời cổ là người Lạc Việt thuộc tộc Bách Việt trong cộng đồng Hán tộc. Ngày nay Bắc Kinh đang dùng quan điểm đó để phục vụ mục đích chính trị. Năm 2014, khi dân ta mạnh mẽ phản đối Trung Quốc đưa giàn khoan 981 vào vùng biển đặc quyền kinh tế Việt Nam, Nhân dân nhật báo Trung Quốc đăng bài “Trung Quốc khuyên Việt Nam lãng tử hồi đầu”; thâm ý muốn nói Việt Nam vốn là con em trong đại gia đình Bách Việt, về sau “lãng tử” hư hỏng này tách ra độc lập, nay nên “hồi đầu” (ăn năn hối lỗi trở lại) đại gia đình xưa.[9]
Chúng ta cần cảnh giác bác bỏ luận điệu thâm hiểm ấy và khẳng định một sự thực lịch sử: Người Kinh-Việt Nam không phải là hậu duệ của người Bách Việt hoặc Lạc Việt.
Hình: Tượng Triệu Đà. Nguồn: Một Thế Giới.
—————–
[1] Nhà Triệu-Mấy vấn đề lịch sử. Trương Sỹ Hùng, Nguyễn Khắc Mai. Nxb Hội Nhà văn, 2017.
[2] 南越国史. Trương Vinh Phương, Hoàng Miễu Chương 张荣芳, 黄淼章. Nxb Quảng Đông, 9/2008.
[3] Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó DT Kinh (Việt) chiếm hơn 86%, còn lại 53 DT thiểu số. Ngôn ngữ của dân tộc Kinh thuộc ngữ hệ Nam Á, khác hẳn ngôn ngữ của người Trung Quốc thuộc ngữ hệ Hán-Tạng.
[4] Henri Paul Gaston Maspero (1883-1945), gốc Do Thái, nhà Hán học, sử học.
[5] 360doc.com/content/18/1006/07/30558861_792336194.shtml.
[6] 骆越方国研究. Chủ biên: Lương Đình Vọng nguyên Phó Hiệu trưởng ĐH Dân tộc Trung ương và Lệ Thanh nguyên Chủ nhiệm Trung tâm Nghiên cứu Sử Địa Biên cương Viện KHXHTQ. Sách gồm 2 tập, 1,4 triệu chữ, Nxb Dân tộc xuất bản. Nội dung trình bày kết quả đề tài “Nghiên cứu Phương quốc Lạc Việt”, là đề tài trọng điểm của Quỹ KHXH nhà nước, thực hiện bởi Viện KHXHTQ, ĐH Dân tộc Trung ương, Hội Nghiên cứu văn hóa Lạc Việt Quảng Tây.
[7] Như trên.
[8] http://lainguyenan.free.fr/pk1936/HayBoTrieuDa.html
[9] https://nghiencuuquocte.org/2019/08/04/bac-bo-luan-dieu-lang-tu-hoi-dau/