Tại sao người Mông Cổ lo sợ bị Trung Quốc thôn tính?

Print Friendly, PDF & Email

Nguồn: Denny Roy, “Mongolians are Paranoid about China, and They Should Be”, PacNet #57,  16/10/2020.

Biên dịch: Phan Nguyên

Nhiều người Mông Cổ lo sợ Trung Quốc cuối cùng sẽ tiếp quản đất nước của họ. Và họ có lý do để lo lắng như vậy.

Mông Cổ dễ bị tổn thương về mặt địa lý. Đây là một vùng đất rộng lớn (gấp 4 lần diện tích của Đức) với dân số thưa thớt chỉ 3 triệu người. Mông Cổ được bao quanh hoàn toàn bởi hai quốc gia lớn hơn và đông dân hơn nhiều lần, những nước có thể dễ dàng chinh phục họ nếu muốn. Mông Cổ cũng có giá trị kinh tế đáng kể. Nước này rất giàu khoáng sản, bao gồm than đá, đồng và uranium. Trung Quốc là nước sử dụng rất nhiều than, nhập khẩu ròng đồng và cần nguồn uranium từ bên ngoài để cung cấp nhiên liệu cho các nhà máy điện hạt nhân ngày càng nhiều của họ.

Sau khi nhà Thanh sụp đổ năm 1911, Mông Cổ đã được độc lập trong một thời gian ngắn (đến năm 1919) trước khi bị Trung Quốc chiếm đóng (1919-1921), rồi được giải phóng bởi Bạch Nga (1921), sau đó là trở thành quốc gia vệ tinh của Liên Xô (1921-1990). Họ đã tự giải phóng khỏi đế chế Xô-viết đang sụp đổ vào cuối Chiến tranh Lạnh và trở thành một nền dân chủ không liên kết thông qua một cuộc cách mạng không đổ máu. Kể từ đó, cả Bắc Kinh và Moskva đều chấp nhận một nước Mông Cổ độc lập vì quốc gia này tạo thành một vùng đệm thuận tiện giữa hai nước và vì mỗi bên đều muốn tránh gây bất an cho bên kia.

Vậy câu hỏi đặt ra là liệu Bắc Kinh có bao giờ quyết định sáp nhập Mông Cổ hay không. Có một số lý do tại sao điều đó có thể xảy ra. Chiếm hữu Mông Cổ sẽ giúp giải quyết được các vấn đề mà một nước Mông Cổ độc lập đặt ra cho Trung Quốc.

Việc người Mông Cổ có một đất nước riêng ở bên kia biên giới Trung Quốc là một trở ngại đối với kế hoạch đồng hóa các dân tộc thiểu số của Trung Quốc. Mông Cổ duy trì và truyền cảm hứng cho chủ nghĩa dân tộc của người Mông Cổ ở Trung Quốc. Vào tháng 6 năm 2020, chính phủ Trung Quốc đã công bố kế hoạch hạn chế việc sử dụng tiếng Mông Cổ, thay vào đó dùng tiếng Quan Thoại trong các trường học của Khu tự trị Nội Mông. Người dân Mông Cổ đã biểu tình tại thủ đô của họ nhằm thể hiện tình đoàn kết văn hóa với đồng bào của họ ở Trung Quốc. Cựu tổng thống Mông Cổ đã gửi một lá thư tới chính phủ Trung Quốc, gọi việc thay đổi chính sách ngôn ngữ là một “hành động tàn bạo”.

Một Mông Cổ độc lập đã thiết lập quan hệ song phương thân thiết với Hoa Kỳ theo chính sách “láng giềng thứ ba”, nhằm tạo đối trọng chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc. Mối liên hệ với Hoa Kỳ đang đe dọa Trung Quốc theo hai cách. Đầu tiên, các mối quan hệ này bao gồm hợp tác an ninh. Mông Cổ là một “quốc gia đối tác của NATO”, tham gia vào các hoạt động huấn luyện và đào tạo chung với Hoa Kỳ và đã đóng góp binh sĩ cho các cuộc chiến do Hoa Kỳ dẫn dắt ở Afghanistan và Iraq. Thứ hai, quan hệ Mỹ – Mông Cổ nhấn mạnh mối quan tâm chung của hai nước đối với dân chủ. Do chính phủ Trung Quốc coi việc thúc đẩy dân chủ là một nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm lật đổ sự cai trị của ĐCSTQ, trong mắt Bắc Kinh, Mông Cổ đã trở thành một tiền đồn tiềm năng của hoạt động lật đổ nằm ngay trên biên giới Trung Quốc. Tính minh bạch và trách nhiệm giải trình mà một nền dân chủ tự do đòi hỏi cũng mâu thuẫn với phương thức hoạt động ưa thích của Trung Quốc là mua chuộc giới tinh hoa của các nước đối tác để mở đường cho các giao dịch kinh doanh song phương.

Một nước Mông Cổ độc lập mang lại một không gian chiến lược mà các đối thủ tiềm tàng của Trung Quốc có thể lấp đầy. Người Trung Quốc vẫn nhớ việc Liên Xô triển khai quân đội và vũ khí tại Mông Cổ trong Chiến tranh Lạnh, và việc một đội quân Liên Xô – Mông Cổ đã tiến vào Trung Quốc từ lãnh thổ Mông Cổ trong những ngày cuối Thế chiến II. Biên giới Mông Cổ với Trung Quốc chỉ cách Bắc Kinh 350 dặm.

Chủ nghĩa “thu hồi lãnh thổ” (irredentism) của Trung Quốc, hay sự bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc nhân danh chủ nghĩa đó, được áp dụng ở Mông Cổ. Người Trung Quốc thường nghĩ rằng Mông Cổ thuộc về Trung Quốc trong lịch sử. (Hiến pháp của Trung Hoa Dân Quốc trước đây, hiện vẫn còn được áp dụng ở Đài Loan, coi Mông Cổ là một phần lãnh thổ Trung Quốc.) Nội Mông, vốn tiếp giáp với Mông Cổ về phía nam và phía đông, đã là một tỉnh của CHND Trung Hoa, nơi sắc tộc Mông Cổ còn đông hơn so với ngay dân số của chính Mông Cổ.

Trung Quốc đang muốn yêu sách các vùng lãnh thổ ở ngoại vi Trung Quốc. Hơn nữa, các yêu sách của Trung Quốc không phải bất biến về mặt lịch sử. Tại các khu vực khác giáp Trung Quốc, các tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh đã gia tăng trong những năm gần đây. Vào cuối những năm 1940, ban lãnh đạo ĐCSTQ vẫn nói rằng Đài Loan nên được độc lập; nhưng ĐCSTQ ngày nay nói rằng Bắc Kinh nên cai trị Đài Loan. Sự quan tâm nghiêm túc của Trung Quốc đối với Biển Đông cũng chỉ xuất hiện sau khi các kết quả khảo sát vào đầu những năm 1970 cho thấy trữ lượng dầu khí đáng kể. Sau đó, Bắc Kinh đã làm sống dậy bản đồ “đường chín đoạn” được vẽ ra lần đầu bởi chính phủ Trung Hoa Dân quốc trước đây vốn bị ĐCSTQ coi là bất hợp pháp. Đầu thế kỷ này, một dự án nghiên cứu do chính phủ Trung Quốc tài trợ đã khẳng định rằng trong thời kỳ tiền hiện đại, miền Bắc bán đảo Triều Tiên là một phần của đế chế Trung Quốc, ngầm đặt cơ sở cho yêu sách của Trung Quốc đối với khu vực ngày nay là lãnh thổ Bắc Triều Tiên. Điều này đã gây ra sự phản đối kịch liệt trong giới truyền thông và xã hội Hàn Quốc. Năm 2013, các phương tiện truyền thông chính thức Trung Quốc đưa tin hai học giả và một vị tướng Trung Quốc đặt câu hỏi về chủ quyền của Nhật Bản đối với quần đảo Ryukyu, một phần quan trọng của “chuỗi đảo thứ nhất” vốn bao gồm các căn cứ của Mỹ trên đảo Okinawa. Năm nay, Trung Quốc mở rộng yêu sách chủ quyền đối với một khu vực tranh chấp tại biên giới với Ấn Độ để bao trùm toàn bộ Thung lũng Galwan.

Nếu Trung Quốc tiến vào, người Mông Cổ không nên trông chờ vào sự giải cứu từ “người hàng xóm thứ ba”. Hoa Kỳ đã không làm gì để ngăn cản Nga chiếm đóng Crimea hay miền đông Ukraine. Mỹ đã từ bỏ các đồng minh người Kurd ở Syria vào năm 2019. Việc lực lượng Mỹ cố gắng can thiệp quân sự vào một cuộc chiến trên bộ chống lại Trung Quốc ở một khu vực sâu bên trong lục địa châu Á và được bao quanh bởi lãnh thổ và không phận của Trung Quốc và Nga là một điều không tưởng.

Còn người hàng xóm thứ hai? Cho đến nay, việc Trung Quốc muốn duy trì quan hệ tốt với Nga đã ngăn Trung Quốc không thôn tính Mông Cổ. Tuy nhiên, cán cân quyền lực giữa Trung Quốc và Nga đang thay đổi theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Nga, với một nền kinh tế có quy mô tương đương với Ý và phụ thuộc vào đầu tư của Trung Quốc, đang thất thế trong mối quan hệ này. Nếu sự gia tăng sức mạnh kinh tế và quân sự của Trung Quốc so với Nga tiếp tục, Bắc Kinh có thể sớm có khả năng yêu cầu Moskva chấp nhận việc Trung Quốc nuốt chửng Mông Cổ và Moskva sẽ phải miễn cưỡng tuân theo.

Thật không may cho Mông Cổ, lập luận mạnh mẽ nhất cho rằng khả năng họ bị Trung Quốc thôn tính là thấp lại nằm ở thực tế Bắc Kinh đã kiểm soát đất nước này thông qua sự thống trị về kinh tế. Trung Quốc chiếm 80% xuất khẩu của Mông Cổ, cung cấp các khoản đầu tư trực tiếp quan trọng và giúp kết nối kinh tế Mông Cổ với thế giới bên ngoài thông qua tuyến đường sắt nối với cảng Thiên Tân của Trung Quốc. Trong quá khứ, Trung Quốc đã từng không ngần ngại sử dụng các đòn bẩy kinh tế để trừng phạt Ulaan Baatar về các vấn đề chính trị, chẳng hạn như khi Mông Cổ tổ chức đón tiếp Đạt Lai Lạt Ma.

Trong thời kỳ tiền hiện đại, Mông Cổ từng thống trị một đế chế lớn nhất trong lịch sử nhân loại, trong đó bao gồm cả lãnh thổ Trung Quốc. Địa vị an ninh quốc gia bấp bênh của họ ngày nay có lẽ là ví dụ về sự đảo ngược số phận khắc nghiệt nhất trong lịch sử nhân loại.

Denny Roy là nghiên cứu viên cao cấp tại Trung tâm Đông Tây, Honolulu. Ông chuyên về các vấn đề chiến lược và an ninh quốc tế tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.

Cuộc chiến chống lại chính sách Trung Quốc hóa của Mông Cổ