Nguồn: Samuel Charap và Sergey Radchenko, “The Talks That Could Have Ended the War in Ukraine,” Foreign Affairs, 16/04/2024
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Xem thêm: Phần 1
VỪA ĐÁNH VỪA ĐÀM
Trong nhận xét mà ông đưa ra vào ngày 29/03, ngay sau khi kết thúc đàm phán, Medinsky, trưởng phái đoàn Nga, rõ ràng đã rất lạc quan. Ông giải thích rằng các cuộc thảo luận xoay quanh hiệp ước về tính trung lập của Ukraine đang bước vào giai đoạn thực tế, và rằng – bất chấp những điều khoản phức tạp do hiệp ước có nhiều bên đảm bảo tiềm năng – Putin và Zelensky có lẽ sẽ ký nó tại một hội nghị thượng đỉnh trong tương lai gần.
Ngày hôm sau, ông nói với các phóng viên, “Hôm qua, phía Ukraine, lần đầu tiên đã thể hiện rõ bằng văn bản sự sẵn sàng thực hiện một loạt các điều kiện quan trọng nhất để xây dựng mối quan hệ láng giềng tốt đẹp và bình thường trong tương lai với Nga.” Ông nói tiếp, “Họ đã trình bày cho chúng tôi những nguyên tắc về một thỏa thuận tiềm năng trong tương lai, được ghi rõ bằng văn bản.”
Cùng lúc đó, Nga đã từ bỏ nỗ lực chiếm Kyiv và đang rút lực lượng khỏi mặt trận phía bắc. Alexander Fomin, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nga, đã công bố quyết định này tại Istanbul vào ngày 29/3, gọi đây là nỗ lực “xây dựng lòng tin lẫn nhau.” Trên thực tế, rút quân là điều bắt buộc phải làm. Người Nga đã đánh giá quá cao khả năng của mình và đánh giá quá thấp sự phản kháng của Ukraine, và giờ đây, họ đang biến thất bại quân sự thành một động thái ngoại giao để tạo điều kiện thuận lợi cho đàm phán hòa bình.
Việc rút quân đã gây ra những hậu quả sâu rộng. Nó củng cố quyết tâm của Zelensky, loại bỏ mối đe dọa trước mắt đối với chính phủ của ông, và chứng minh rằng quân đội được ca ngợi của Putin thực sự có thể bị đẩy lùi, nếu không muốn nói là bị đánh bại, trên chiến trường. Nó cũng cho phép phương Tây hỗ trợ quân sự quy mô lớn cho Ukraine, bằng cách giải phóng các tuyến đường dẫn đến Kyiv. Cuối cùng, cuộc rút lui đã khiến người ta phát hiện ra bí mật khủng khiếp về những hành động tàn bạo mà lính Nga đã thực hiện ở các vùng ngoại ô Kyiv là Bucha và Irpin, nơi họ đã hãm hiếp, tra tấn, và sát hại thường dân.
Các báo cáo từ Bucha bắt đầu nổi lên khoảng đầu tháng 4. Vào ngày 04/04, Zelensky đã đến thăm thị trấn. Ngày hôm sau, ông nói chuyện qua video với Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc và cáo buộc Nga gây ra tội ác chiến tranh ở Bucha, so sánh lực lượng của Nga với nhóm khủng bố Nhà nước Hồi giáo (còn được gọi là ISIS). Zelensky sau đó đã kêu gọi Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc trục xuất Nga, vốn là thành viên thường trực.
Tuy nhiên, điều đáng chú ý là hai bên vẫn tiếp tục làm việc suốt ngày đêm để soạn thảo một hiệp ước mà Putin và Zelensky dự kiến sẽ ký trong một hội nghị thượng đỉnh được tổ chức trong tương lai không xa.
Hai bên đã tích cực trao đổi các bản dự thảo với nhau và dường như cũng bắt đầu chia sẻ chúng với các bên khác. (Trong cuộc phỏng vấn vào tháng 2/2023, Bennett cho biết đã nhìn thấy 17 hoặc 18 bản thảo đàm phán của thỏa thuận; Lukashenko cũng cho biết đã nhìn thấy ít nhất một phiên bản.) Chúng tôi đã xem xét kỹ lưỡng hai trong số các bản dự thảo này, một bản đề ngày 12/04 và một bản khác đề ngày 15/04, mà những người tham gia đàm phán cho chúng tôi biết là bản cuối cùng được trao đổi giữa các bên. Phần lớn nội dung giống nhau, nhưng vẫn có những khác biệt quan trọng – và cả hai bản đều cho thấy rằng thông cáo chung chưa giải quyết được một số vấn đề chính.
Đầu tiên, trong khi thông cáo và dự thảo ngày 12/04 nêu rõ rằng các bên đảm bảo sẽ quyết định một cách độc lập xem liệu họ có đến trợ giúp Kyiv trong trường hợp xảy ra một cuộc tấn công vào Ukraine hay không, thì trong dự thảo ngày 15/04, phía Nga đã cố gắng huỷ bỏ điều khoản quan trọng này, bằng cách nhấn mạnh rằng hành động trợ giúp sẽ chỉ xảy ra “trên cơ sở một quyết định được tất cả các bên đảm bảo đồng ý” – theo đó trao cho kẻ xâm lược tiềm năng là Nga quyền phủ quyết. Theo ghi chú trong văn bản, phía Ukraine đã bác bỏ sửa đổi đó, kiên quyết thực hiện công thức ban đầu, theo đó mỗi bên đảm bảo đều có nghĩa vụ phải hành động và không cần phải đạt được sự đồng thuận trước khi thực hiện.
Thứ hai, dự thảo có chứa một số điều khoản được bổ sung vào hiệp ước theo yêu cầu của Nga, nhưng không nằm trong thông cáo chung, và liên quan đến các vấn đề mà Ukraine từ chối thảo luận. Những điều khoản này yêu cầu Ukraine phải cấm “chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa Quốc Xã, chủ nghĩa tân Quốc Xã, và chủ nghĩa dân tộc hung hăng” – và, để đạt được mục tiêu đó, phải bãi bỏ sáu đạo luật của Ukraine (toàn bộ hoặc một phần) có liên quan đến các khía cạnh gây tranh cãi của lịch sử thời kỳ Xô-viết, cụ thể là vai trò của những người theo chủ nghĩa dân tộc Ukraine trong Thế chiến II.
Có thể hiểu tại sao Ukraine lại phản đối việc để Nga quyết định các chính sách dựa trên ký ức lịch sử của mình, đặc biệt trong bối cảnh một hiệp ước về đảm bảo an ninh. Và phía Nga cũng biết những điều khoản này sẽ gây khó khăn cho người Ukraine trong việc chấp nhận phần còn lại của hiệp ước. Do đó, chúng có thể được xem là những “viên thuốc độc.”
Tuy nhiên, cũng có thể các điều khoản này nhằm mục đích giúp Putin giữ thể diện. Chẳng hạn, bằng cách buộc Ukraine bãi bỏ các đạo luật lên án quá khứ thời Liên Xô và xem những người theo chủ nghĩa dân tộc Ukraine đã chiến đấu với Hồng Quân trong Thế chiến II là những người đấu tranh cho tự do, Điện Kremlin có thể lập luận rằng họ đã đạt được mục tiêu đã đề ra là “phi phát xít hóa,” dù ý nghĩa ban đầu của cụm từ đó có lẽ là việc lật đổ chính phủ của Zelensky.
Sau cùng, vẫn chưa rõ liệu có phải những điều khoản này đã khiến thỏa thuận đổ vỡ hay không. Trưởng đoàn đàm phán Ukraine, Arakhamia, sau đó đã hạ thấp tầm quan trọng của chúng. Ông nói trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 11/2023 trên một chương trình tin tức truyền hình Ukraine, rằng Nga đã “hy vọng cho đến giây phút cuối cùng rằng họ [có thể] ép chúng ta ký một thỏa thuận như vậy, rằng chúng ta [sẽ] chấp nhận trung lập. Đây là điều quan trọng nhất đối với họ. Họ sẵn sàng kết thúc chiến tranh nếu chúng ta, giống như Phần Lan [trong Chiến tranh Lạnh], giữ thái độ trung lập và cam kết không gia nhập NATO.”
Quy mô và cơ cấu của quân đội Ukraine cũng là chủ đề được đàm phán căng thẳng. Tính đến ngày 15/04, hai bên vẫn có quan điểm quá khác biệt về vấn đề này. Ukraine muốn có một đội quân thời bình gồm 250.000 người, nhưng Nga nhất quyết rằng con số tối đa là 85.000, nhỏ hơn đáng kể so với quân đội thường trực mà Ukraine có trước cuộc xâm lược năm 2022. Ukraine muốn có 800 xe tăng, nhưng Nga chỉ cho phép 342. Sự khác biệt giữa tầm bắn của tên lửa thậm chí còn lớn hơn, 280 km (yêu cầu của Ukraine), và chỉ 40 km (yêu cầu của Nga).
Tuy nhiên, quá trình đàm phán đã cố tình bỏ qua vấn đề biên giới và lãnh thổ. Rõ ràng, ý tưởng là để Putin và Zelensky quyết định những vấn đề đó tại hội nghị thượng đỉnh đã lên kế hoạch. Nhiều khả năng, Putin sẽ nhất quyết đòi giữ toàn bộ lãnh thổ mà lực lượng của ông đã chiếm đóng. Câu hỏi đặt ra là liệu Zelensky có thể bị thuyết phục để đồng ý với việc chiếm đất này hay không.
Bất chấp những bất đồng đáng kể này, dự thảo ngày 15/04 gợi ý rằng hiệp ước sẽ được ký trong vòng hai tuần. Tất nhiên, ngày tháng vẫn có thể thay đổi, nhưng điều đó cho thấy hai bên đã lên kế hoạch tiến hành nhanh chóng. “Giữa tháng 4/2022, chúng tôi đã tiến rất gần đến việc kết thúc cuộc chiến bằng một thoả thuận hòa bình,” một trong những nhà đàm phán Ukraine, Oleksandr Chalyi, kể lại trong lần xuất hiện trước công chúng vào tháng 12/2023. “Một tuần sau khi Putin bắt đầu gây hấn, ông ấy kết luận rằng mình đã phạm sai lầm lớn, và cố gắng làm mọi cách có thể để đạt được một thỏa thuận với Ukraine.”
CHUYỆN GÌ ĐÃ XẢY RA?
Vậy thì tại sao đàm phán lại đổ vỡ? Putin tuyên bố rằng các cường quốc phương Tây đã can thiệp và huỷ hoại thỏa thuận vì họ quan tâm đến việc làm suy yếu nước Nga hơn là chấm dứt chiến tranh. Ông cáo buộc rằng Boris Johnson, khi đó là Thủ tướng Anh, đã thay mặt “thế giới Anglo-Saxon” gửi thông điệp này tới người Ukraine, rằng họ phải “chiến đấu với Nga cho đến khi đạt được chiến thắng và Nga phải gánh chịu thất bại chiến lược.”
Phản ứng của phương Tây đối với cuộc đàm phán này, dù khác xa với mô tả của Putin, nhưng chắc chắn là rất lãnh đạm. Washington và các đồng minh hết sức nghi ngờ về triển vọng của con đường ngoại giao ở Istanbul. Xét cho cùng, thông cáo đã bỏ qua vấn đề lãnh thổ và biên giới, và các bên vẫn có quan điểm khác biệt về nhiều vấn đề quan trọng khác. Đối với phương Tây, dường như đây không phải là một cuộc đàm phán sẽ thành công.
Hơn nữa, một cựu quan chức Mỹ phụ trách chính sách đối với Ukraine vào thời điểm đó đã tiết lộ với chúng tôi rằng Ukraine đã không tham khảo ý kiến của Washington mãi cho đến khi thông cáo được ban hành, dù hiệp ước được mô tả sẽ tạo ra các cam kết pháp lý mới cho Mỹ – bao gồm cả nghĩa vụ gây chiến với Nga nếu nước này xâm lược Ukraine một lần nữa. Chỉ riêng điều khoản đó thôi cũng đủ khiến hiệp ước trở thành một điều không thể chấp nhận đối với Washington. Vì vậy, thay vì ủng hộ Thông cáo Istanbul và tiến trình ngoại giao sau đó, phương Tây lại tăng cường viện trợ quân sự cho Kyiv và gia tăng áp lực lên Nga, bao gồm cả việc thông qua chế độ trừng phạt ngày càng nặng.
Vương quốc Anh đã dẫn đầu nỗ lực này. Vào ngày 30/03, Johnson thể hiện việc không ủng hộ giải pháp ngoại giao khi nói rằng “chúng ta nên tiếp tục tăng cường các biện pháp trừng phạt với một chương trình gồm nhiều giai đoạn, cho đến khi không còn một người lính nào của Putin ở lại Ukraine.” Sang ngày 09/04, Johnson xuất hiện ở Kyiv, trở thành nhà lãnh đạo nước ngoài đầu tiên đến thăm thủ đô Ukraine sau khi Nga ngừng chiến dịch chiếm Kyiv. Theo báo cáo, ông nói với Zelensky rằng “bất kỳ thỏa thuận nào với Putin cũng là thoả thuận đi vào ngõ cụt.” Johnson nói rằng bất kỳ thỏa thuận nào “cũng là một chiến thắng đối với ông ta, nếu anh đưa cho ông ta bất cứ thứ gì, ông ta sẽ chỉ giữ nó, cất nó đi, rồi sau đó chuẩn bị cho cuộc tấn công tiếp theo.” Trong cuộc phỏng vấn năm 2023, Arakhamia đã nổi giận và buộc Johnson phải chịu trách nhiệm về kết quả này. “Khi chúng tôi trở về từ Istanbul,” ông nói, “Boris Johnson đã đến Kyiv và nói rằng chúng tôi sẽ không ký bất cứ thứ gì với [Nga] – và hãy cứ tiếp tục chiến đấu.”
Kể từ đó, Putin đã liên tục sử dụng phát biểu của Arakhamia để đổ lỗi rằng phương Tây khiến đàm phán thất bại, và xem nó như bằng chứng cho sự phục tùng của Ukraine đối với những người ủng hộ nước này. Bất chấp trò thao túng của Putin, Arakhamia đã chỉ ra vấn đề thực sự: bản thông cáo mô tả một khuôn khổ đa phương đòi hỏi phương Tây sẵn sàng can dự ngoại giao với Nga và xem xét một sự đảm bảo an ninh thực sự cho Ukraine. Đó không phải là ưu tiên hàng đầu của Mỹ và các đồng minh vào thời điểm đó.
Trong những nhận xét công khai của mình, người Mỹ chưa bao giờ coi thường ngoại giao như Johnson đã từng làm. Nhưng họ dường như không coi đó là trọng tâm trong phản ứng của họ trước cuộc xâm lược của Nga. Ngoại trưởng Antony Blinken và Bộ trưởng Quốc phòng Lloyd Austin đã đến thăm Kyiv hai tuần sau Johnson, chủ yếu là để phối hợp hỗ trợ quân sự. Như lời phát biểu của Blinken tại một cuộc họp báo sau đó, “Chiến lược mà chúng tôi triển khai – hỗ trợ mạnh mẽ cho Ukraine, gây áp lực lớn lên Nga, đoàn kết với hơn 30 quốc gia tham gia vào những nỗ lực này – đang mang lại kết quả thực sự.”
Tuyên bố rằng phương Tây đã ép Ukraine rút lui khỏi đàm phán với Nga là vô căn cứ. Nó cho thấy Kyiv không có tiếng nói gì trong vấn đề này. Đúng là những lời đề nghị hỗ trợ của phương Tây đã củng cố quyết tâm của Zelensky, và sự thiếu nhiệt tình của phương Tây dường như đã làm giảm mức độ quan tâm của Zelensky đối với ngoại giao. Tuy nhiên, xét cho cùng, trong các cuộc thảo luận với các nhà lãnh đạo phương Tây, Zelensky đã không ưu tiên theo đuổi biện pháp ngoại giao với Nga để chấm dứt chiến tranh. Cả Mỹ và các đồng minh đều không nhận thấy rằng Zelensky muốn họ phải tham gia vào con đường ngoại giao một cách tích cực. Vào thời điểm đó, xét đến sự cảm thông rộng rãi của công chúng phương Tây, việc thúc ép một giải pháp ngoại giao như vậy có thể ảnh hưởng đến chính sách của phương Tây.
Zelensky cũng vô cùng phẫn nộ trước những hành động tàn bạo của Nga tại Bucha và Irpin, và có lẽ ông hiểu rằng điều mà ông gọi là “cuộc diệt chủng” của Nga ở Ukraine sẽ khiến thoả thuận ngoại giao với Moscow trở nên khó khăn hơn về mặt chính trị. Tuy nhiên, đằng sau hậu trường, công việc soạn thảo hiệp ước vẫn tiếp tục và thậm chí còn được tăng cường trong những ngày và tuần sau khi tội ác chiến tranh của Nga bị phát hiện, cho thấy rằng sự tàn bạo ở Bucha và Irpin chỉ là yếu tố thứ yếu trong quá trình ra quyết định của Kyiv.
Niềm tin mới xuất hiện của người Ukraine, rằng họ có thể giành chiến thắng trong cuộc chiến, rõ ràng cũng đóng một vai trò nào đó. Việc Nga rút khỏi Kyiv và các thành phố lớn khác ở phía đông bắc và triển vọng có thêm vũ khí từ phương Tây (vì những con đường vào Kyiv giờ đây do Ukraine kiểm soát) đã giúp thay đổi cán cân quân sự. Sự lạc quan về những lợi ích có thể đạt được trên chiến trường thường làm giảm sự quan tâm của một bên tham chiến đối với những thỏa hiệp trên bàn đàm phán.
Quả thật, từ cuối tháng 4, Ukraine bắt đầu tỏ ra cứng rắn hơn, yêu cầu Nga rút quân khỏi Donbas như điều kiện tiên quyết cho bất kỳ hiệp ước nào. Như Oleksii Danilov, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh Quốc gia Ukraine, đã phát biểu vào ngày 02/05, “Một hiệp ước với Nga là không thể – chỉ có thể chấp nhận đầu hàng.”
Ngoài ra, còn có câu chuyện từ phía người Nga, vốn rất khó đánh giá. Phải chăng toàn bộ cuộc đàm phán này là một vở kịch được dàn dựng khéo léo, hay Moscow thực sự quan tâm đến một giải pháp? Liệu Putin có suy nghĩ lại khi biết rằng phương Tây sẽ không ký vào thoả thuận, hay lập trường của Ukraine đã cứng rắn hơn?
Ngay cả khi Nga và Ukraine giải quyết được bất đồng, khuôn khổ mà họ đàm phán ở Istanbul vẫn cần có sự đồng thuận từ Mỹ và các đồng minh của nước này. Và các cường quốc phương Tây đó sẽ phải chấp nhận rủi ro chính trị bằng cách tham gia vào cuộc đàm phán với Nga và Ukraine, đồng thời đặt uy tín của họ vào thử thách bằng cách đảm bảo an ninh cho Ukraine. Vào thời điểm đó, và trong suốt hai năm qua, ý chí sẵn sàng thực hiện các giải pháp ngoại giao rủi ro, hoặc thực sự cam kết bảo vệ Ukraine trong tương lai, gần như không hề tồn tại ở Washington và các thủ đô châu Âu.
Lý do cuối cùng khiến cho đàm phán thất bại là do các nhà đàm phán đã cầm đèn chạy trước ô tô khi đặt trật tự an ninh thời hậu chiến lên trước việc kết thúc chiến tranh. Hai bên đã bỏ qua các vấn đề thiết yếu về quản lý và giảm thiểu xung đột (thiết lập hành lang nhân đạo, ngừng bắn, rút quân) và thay vào đó, cố gắng tạo ra một thứ giống như một hiệp ước hòa bình lâu dài, nhằm giải quyết các tranh chấp an ninh vốn là nguồn gốc của căng thẳng địa chính trị suốt hàng chục năm qua. Đó là một nỗ lực đáng ngưỡng mộ – nhưng lại quá tham vọng.
Công bằng mà nói, Nga, Ukraine, và phương Tây đã thử làm điều ngược lại – và cũng thất bại thảm hại. Các thỏa thuận Minsk được ký vào năm 2014 và 2015 sau khi Nga sáp nhập Crimea và xâm chiếm Donbas gồm toàn những chi tiết vụn vặt, như ngày giờ chấm dứt chiến sự, và hệ thống vũ khí nào sẽ được rút đi, với khoảng cách bao nhiêu. Quan ngại an ninh cốt lõi của cả hai bên chỉ được giải quyết một cách gián tiếp, nếu có.
Câu chuyện này cho thấy rằng các cuộc đàm phán trong tương lai nên được triển khai theo nhiều kênh song song, trong đó tính thực tế của việc chấm dứt chiến tranh sẽ được giải quyết theo một kênh đàm phán riêng, trong khi các vấn đề rộng hơn sẽ được giải quyết theo một kênh khác.
HÃY GHI NHỚ BÀI HỌC
Ngày 11/04/2024, Lukashenko, trung gian ban đầu của đàm phán hòa bình Nga-Ukraine, đã kêu gọi các bên quay trở lại với dự thảo hiệp ước từ mùa xuân năm 2022. “Đó là một thoả thuận hợp lý,” ông nói trong cuộc trò chuyện với Putin ở Điện Kremlin. “Đó cũng là một thoả thuận có thể chấp nhận được đối với Ukraine. Họ đã đồng ý với thoả thuận này.”
Putin đáp, “Tất nhiên là họ đã đồng ý.”
Trên thực tế, Nga và Ukraine chưa bao giờ đi đến một văn bản thỏa hiệp cuối cùng. Nhưng họ đã đi xa hơn so với những gì chúng ta nghĩ trước đây, đạt được một khuôn khổ tổng thể cho một thỏa thuận khả thi.
Sau hai năm tàn sát vừa qua, nhắc lại điều này chỉ như nước chảy qua cầu. Nhưng đó là một lời nhắc nhở rằng Putin và Zelensky từng sẵn sàng xem xét những thỏa hiệp đặc biệt để chấm dứt chiến tranh. Vì vậy, nếu và khi Kyiv và Moscow quay trở lại bàn đàm phán, họ sẽ thấy bàn đàm phán tràn ngập những ý tưởng có thể hữu ích cho việc xây dựng một nền hòa bình lâu dài.
Samuel Charap là giám đốc về Chính sách Nga và Á-Âu, đồng thời là nhà khoa học chính trị cấp cao tại Tập đoàn RAND.
Sergey Radchenko là giáo sư tại Trường Nghiên cứu Quốc tế Cao cấp của Đại học Johns Hopkins ở Châu Âu.