Những kịch bản cho hồi kết của Putin (P1)

Print Friendly, PDF & Email

Nguồn: Liana Fix và Michael Kimmage, “Putin’s Last Stand,” Foreign Affairs, Tháng 1-2/2023

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Các kịch bản dự đoán thất bại của người Nga.

Cuộc chiến của Tổng thống Nga Vladimir Putin ở Ukraine đáng lẽ phải là thành tựu đỉnh cao của ông, bằng chứng cho thấy nước Nga đã tiến xa như thế nào kể từ khi đế chế Xô-viết sụp đổ vào năm 1991. Sáp nhập Ukraine được dự kiến là bước đầu tiên trong quá trình tái thiết đế chế Nga. Putin có ý định vạch trần Mỹ chỉ là “con hổ giấy” bên ngoài Tây Âu, và chứng minh rằng Nga, cùng với Trung Quốc, được định sẵn sẽ nắm giữ vai trò lãnh đạo trong một trật tự quốc tế mới, đa cực.

Nhưng kế hoạch đã không thành sự thật. Kyiv kiên trì đứng vững, và quân đội Ukraine đã phát triển thành một lực lượng hùng mạnh, một phần nhờ vào quan hệ đối tác chặt chẽ với Mỹ và các đồng minh phương Tây. Ngược lại, quân đội Nga đã thể hiện khả năng tổ chức và tư duy chiến lược kém. Hệ thống chính trị Nga cũng cho thấy họ không thể học hỏi từ những sai lầm của mình. Vì gần như không thể tác động đến hành động của Putin, phương Tây buộc phải chuẩn bị cho giai đoạn tiếp theo của cuộc chiến thảm khốc do Nga lựa chọn.

Chiến tranh vốn dĩ không thể đoán trước. Thật vậy, diễn biến của cuộc xung đột đã bác bỏ những dự đoán phổ biến ban đầu rằng Ukraine sẽ nhanh chóng sụp đổ, và việc nước này đảo ngược vận mệnh là hoàn toàn khả thi. Người Nga đang hướng tới thất bại, chỉ chưa rõ thất bại này sẽ diễn ra dưới hình thức nào. Về cơ bản, có ba kịch bản, và mỗi kịch bản lại có hàm ý khác nhau đối với các nhà hoạch định chính sách ở phương Tây và Ukraine.

Kịch bản đầu tiên và ít có khả năng xảy ra nhất là Nga sẽ chấp nhận thất bại của mình bằng cách chấp nhận một thỏa thuận thương lượng dựa trên các điều kiện của Ukraine. Tình hình sẽ phải thay đổi rất nhiều thì kịch bản này mới trở thành hiện thực, bởi bất kỳ hình thức đối thoại ngoại giao nào giữa Nga, Ukraine, và phương Tây đều không còn tồn tại. Phạm vi xâm lược và mức độ tội ác chiến tranh của Nga cũng khiến Ukraine khó chấp nhận một giải pháp ngoại giao thấp hơn sự đầu hàng hoàn toàn của Nga.

Ngoài ra, chính phủ Nga – dưới thời Putin hoặc người kế nhiệm – có thể cố gắng giữ lại Crimea và tìm kiếm hòa bình ở nơi khác. Để giữ thể diện trong nước, Điện Kremlin có thể tuyên bố rằng họ đang chuẩn bị cho chiến tranh trường kỳ ở Ukraine, để ngỏ khả năng xảy ra tiến công quân sự bổ sung. Họ có thể đổ lỗi cho NATO về sự kém cỏi của mình, lập luận rằng việc chuyển giao vũ khí của NATO, chứ không phải sức mạnh của Ukraine, đã cản trở chiến thắng của Nga. Để cách tiếp cận này được thông qua trong chế độ, những người theo đường lối cứng rắn – nhiều khả năng gồm cả chính Putin – sẽ bị loại ra bên lề. Điều này sẽ khó nhưng không phải là không thể. Dù vậy, dưới thời Putin, kết quả này rất khó xảy ra, vì ông đã chọn cách tiếp cận tối đa ngay từ đầu.

Kịch bản thứ hai sẽ là một thất bại trong bối cảnh leo thang. Điện Kremlin sẽ tìm cách kéo dài cuộc chiến ở Ukraine trong khi tung ra một chiến dịch gồm các hành động phá hoại ngầm ở các quốc gia ủng hộ Kyiv và ở chính Ukraine. Trong trường hợp xấu nhất, Nga có thể lựa chọn tấn công hạt nhân vào Ukraine. Sau đó, chiến tranh sẽ leo thang đến đối đầu quân sự trực tiếp giữa NATO và Nga. Nga sẽ chuyển từ một quốc gia theo chủ nghĩa xét lại thành một quốc gia bất hảo, một quá trình vốn dĩ đang diễn ra rồi, và quá trình đó sẽ củng cố niềm tin của phương Tây rằng Nga là một mối đe dọa đặc biệt và không thể chấp nhận được. Vượt qua ngưỡng hạt nhân có thể dẫn đến sự can dự của quân đội NATO vào cuộc chiến, đẩy nhanh thất bại của Nga trên chiến trường.

Một khẩu lựu pháo của Nga bị phá hủy ở vùng Kharkiv, Ukraine vào tháng 9/2022. Nguồn ảnh: Lực lượng Vũ trang Ukraine / Reuters

Kịch bản cuối cùng sẽ là một thất bại thông qua sụp đổ chế độ, với những trận chiến quyết định không diễn ra ở Ukraine, mà là trong hành lang của Điện Kremlin hoặc trên đường phố Moscow. Putin đã tập trung quyền lực vào tay mình, và việc ông ngoan cố theo đuổi một cuộc chiến cầm chắc thất bại đã đặt chế độ của ông vào thế lung lay. Người Nga sẽ chỉ ủng hộ vị sa hoàng kém cỏi của họ đến một thời điểm nhất định mà thôi. Dù Putin đã mang lại sự ổn định chính trị cho nước Nga – một tình trạng được đánh giá cao sau những đổ vỡ của thời hậu Xô-viết – người dân vẫn có thể quay lưng lại với ông nếu chiến tranh dẫn đến tình trạng thiếu thốn chung. Sự sụp đổ của chế độ Putin có thể đồng nghĩa với việc kết thúc chiến tranh ngay lập tức, vì Nga sẽ không còn khả năng tham chiến khi chính nước này rơi vào hỗn loạn. Một cuộc đảo chính theo sau bởi nội chiến sẽ lặp lại những gì đã xảy ra khi phe Bolshevik giành chính quyền vào năm 1917, dẫn đến việc Nga rút khỏi Thế chiến I.

Bất kể nó diễn ra dưới hình thức nào, một thất bại của Nga tất nhiên sẽ được hoan nghênh. Nó sẽ giải phóng Ukraine khỏi nỗi kinh hoàng mà nước này phải gánh chịu kể từ khi bị xâm lược. Nó sẽ củng cố nguyên tắc rằng hành động tấn công một quốc gia khác chắc chắn sẽ bị trừng phạt. Nó có thể mở ra những cơ hội mới cho Belarus, Gruzia, và Moldova, và cho phương Tây hoàn tất việc sắp xếp châu Âu theo dự định của mình. Đối với Belarus, sẽ xuất hiện một con đường để chấm dứt chế độ độc tài và hướng tới các cuộc bầu cử tự do và công bằng. Gruzia, Moldova, và Ukraine có thể cùng nhau phấn đấu để cuối cùng hội nhập vào Liên minh châu Âu và thậm chí là NATO, theo bước các chính phủ Trung và Đông Âu sau khi Liên Xô sụp đổ.

Dù thất bại của Nga sẽ mang lại nhiều lợi ích, Mỹ và Châu Âu nên chuẩn bị cho tình trạng rối loạn khu vực và toàn cầu mà nó sẽ tạo ra. Kể từ năm 2008, Nga đã là một cường quốc theo chủ nghĩa xét lại. Họ đã vẽ lại biên giới, sáp nhập lãnh thổ, can thiệp vào các cuộc bầu cử, chen chân vào nhiều cuộc xung đột khác nhau ở châu Phi, và thay đổi động lực địa chính trị ở Trung Đông bằng cách ủng hộ Tổng thống Syria Bashar al-Assad. Nếu Nga theo đuổi leo thang triệt để hoặc rơi vào hỗn loạn thay vì chấp nhận thất bại thông qua đàm phán, hậu quả sẽ được cảm nhận ở cả châu Á, châu Âu, và Trung Đông. Tình trạng rối loạn có thể diễn ra dưới hình thức ly khai, hoặc các cuộc xung đột mới nổ ra bên trong và xung quanh Nga, quốc gia có diện tích đất liền lớn nhất thế giới. Việc biến Nga thành một quốc gia thất bại bị nội chiến tàn phá sẽ làm sống lại những câu hỏi từng khiến các nhà hoạch định chính sách phương Tây chật vật vào năm 1991: chẳng hạn, ai sẽ giành quyền kiểm soát vũ khí hạt nhân của Nga? Một thất bại trong hỗn loạn của Nga sẽ tạo ra một lỗ hổng nguy hiểm trong hệ thống quốc tế.

KHÔNG THỂ ĐÀM PHÁN

Cố gắng thuyết phục Putin chấp nhận thất bại thông qua đàm phán là điều rất khó, nếu không muốn nói là không thể. (Việc này có thể khả thi hơn dưới thời người kế nhiệm ông.) Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky sẽ yêu cầu Moscow từ bỏ yêu sách đối với các vùng lãnh thổ do Nga kiểm soát trên danh nghĩa ở Donetsk, Kherson, Luhansk, và Zaporizhzhia. Putin đã ăn mừng việc sáp nhập các khu vực này bằng nhiều hoạt động long trọng. Ông sẽ khó mà thay đổi quan điểm sau màn thể hiện lòng yêu nước, dù khả năng kiểm soát của Nga đối với các lãnh thổ này là rất mong manh. Bất kỳ nhà lãnh đạo Nga nào, dù là Putin hay người nào khác, cũng sẽ không chịu từ bỏ Crimea, một khu vực của Ukraine mà Nga đã sáp nhập vào năm 2014.

Các điều kiện ở Nga sẽ phải có lợi cho sự thỏa hiệp. Ban lãnh đạo mới của Nga sẽ phải đối diện với một quân đội mất tinh thần và đánh cược vào việc công chúng chấp nhận đầu hàng. Người Nga có thể trở nên thờ ơ nếu chiến tranh tiếp diễn mà không có giải pháp rõ ràng. Nhưng giao tranh sẽ vẫn tiếp tục ở các khu vực phía đông Ukraine và căng thẳng giữa hai nước sẽ vẫn ở mức cao.

Dù vậy, một thỏa thuận với Ukraine có thể giúp bình thường hóa quan hệ giữa Nga và phương Tây. Đó sẽ là một điểm hấp dẫn đối với một nhà lãnh đạo Nga ít quân phiệt hơn Putin, và cũng sẽ hấp dẫn nhiều người Nga. Các nhà lãnh đạo phương Tây cũng có thể có lợi ích khi thúc đẩy đàm phán nhằm chấm dứt chiến tranh. Vấn đề ở đây là mặt thời điểm. Trong hai tháng đầu tiên sau cuộc xâm lược vào tháng 2/2022, Nga đã để mất cơ hội đàm phán với Zelensky và tận dụng đòn bẩy chiến trường của mình. Sau đợt phản công thành công của Ukraine, Kyiv có rất ít lý do để nhượng bộ bất cứ điều gì. Kể từ khi xâm lược, Nga đã dốc toàn lực và liên tục leo thang chiến sự thay vì thể hiện sự sẵn lòng thỏa hiệp. Một nhà lãnh đạo mềm mỏng hơn Putin có thể khiến Ukraine cân nhắc việc đàm phán. Khi đối mặt với thất bại, Putin có thể dùng đến việc đả kích trên trường quốc tế. Ông đã liên tục mở rộng lập luận về chiến tranh của mình, tuyên bố rằng phương Tây đang tiến hành một cuộc chiến ủy nhiệm chống lại Nga với mục tiêu hủy diệt nước này. Các bài phát biểu năm 2022 của Putin là phiên bản lớn tiếng hơn của bài phát biểu mà ông đưa ra tại Hội nghị An ninh Munich 15 năm trước, trong đó ông tố cáo chủ nghĩa ngoại lệ của Mỹ, lập luận rằng Mỹ “đã vượt quá biên giới quốc gia của mình về mọi mặt”.

Gồm một chút đe dọa, một chút vô nghĩa, và một chút thăm dò, những luận điệu của Putin là nhằm động viên người Nga về mặt cảm xúc. Nhưng cũng có một logic chiến thuật đằng sau nó: dù việc mở rộng chiến tranh ra bên ngoài Ukraine rõ ràng sẽ không giúp Putin giành được lãnh thổ mà ông khao khát, nhưng nó có thể ngăn cản Ukraine và phương Tây giành chiến thắng trong cuộc xung đột. Ngôn từ hiếu chiến của ông đang đặt nền móng cho sự leo thang và cho cuộc đối đầu thế kỷ 21 với phương Tây, trong đó Nga sẽ tìm cách khai thác lợi thế bất đối xứng của mình với tư cách là một quốc gia khủng bố hoặc bất hảo.

Các công cụ đối đầu của Nga có thể bao gồm việc sử dụng vũ khí hóa học hoặc sinh học bên trong hoặc ngoài Ukraine. Putin có thể phá hủy các đường ống vận chuyển nhiên liệu hoặc cơ sở hạ tầng dưới đáy biển, hoặc thực hiện các cuộc tấn công mạng vào các thể chế tài chính phương Tây. Sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật có lẽ là phương án cuối cùng. Trong bài phát biểu vào ngày 30/9, Putin đã đề cập đến Hiroshima và Nagasaki, đưa ra những diễn giải lộn xộn về giai đoạn kết thúc của Thế chiến II. Nói một cách nhẹ nhàng, thì phép so sánh ở đây là không hoàn hảo. Ngay cả khi Nga sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Ukraine, Kyiv vẫn sẽ không đầu hàng. Bởi một điều, người Ukraine biết rằng sự chiếm đóng của Nga đồng nghĩa với sự diệt vong của đất nước họ, điều đó không đúng với nước Nhật năm 1945. Chưa kể, Nhật Bản đang thua trận vào thời điểm đó. Còn tính đến cuối năm 2022, chính Nga, cường quốc hạt nhân, mới là kẻ thua cuộc.

Hậu quả của một cuộc tấn công hạt nhân sẽ rất thảm khốc, không chỉ đối với người dân Ukraine. Chiến tranh sẽ tiếp diễn và vũ khí hạt nhân sẽ không giúp được gì nhiều cho binh lính Nga trên mặt đất. Thay vào đó, Nga sẽ phải đối mặt với sự phẫn nộ của quốc tế. Hiện tại, Brazil, Trung Quốc, và Ấn Độ chưa lên án cuộc xâm lược của Nga, nhưng không có quốc gia nào trong nhóm này thực sự ủng hộ Moscow trong cuộc chiến kinh hoàng của họ, cũng không quốc gia nào ủng hộ việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã công khai điều này vào tháng 11: sau khi gặp Thủ tướng Đức Olaf Scholz, ông đưa ra một tuyên bố rằng hai nhà lãnh đạo “cùng phản đối việc sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân”. Nếu Putin bất chấp lời cảnh báo này, ông sẽ trở thành một kẻ bị cô lập, bị trừng phạt về kinh tế và có lẽ cả về quân sự bởi một liên minh toàn cầu.

Do đó, đối với Nga, đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân có lợi hơn là thực sự làm vậy. Nhưng Putin vẫn có thể lựa chọn sử dụng vũ khí hạt nhân: xét cho cùng, phát động cuộc xâm lược là một nước đi sai lầm nghiêm trọng, nhưng ông vẫn làm thế. Nếu ông chọn phá vỡ điều cấm kỵ hạt nhân, NATO có lẽ sẽ không phản ứng tương xứng, để tránh rủi ro xảy ra đáp trả hạt nhân. Tuy nhiên, liên minh rất có thể sẽ phản ứng bằng lực lượng thông thường để làm suy yếu quân đội Nga và ngăn chặn các cuộc tấn công hạt nhân tiếp theo, theo đó đặt ra nguy cơ gây ra một vòng xoáy leo thang nếu Nga tiến hành các cuộc tấn công thông thường nhằm vào NATO để đáp trả.

Ngay cả khi tránh được kịch bản này, một thất bại của Nga sau khi sử dụng hạt nhân vẫn sẽ gây ra những hậu quả nguy hiểm. Nó sẽ tạo ra một thế giới không có trạng thái cân bằng hạt nhân không hoàn hảo của Chiến tranh Lạnh và kỷ nguyên 30 năm sau Chiến tranh Lạnh. Nó sẽ khuyến khích các nhà lãnh đạo trên toàn cầu sử dụng vũ khí hạt nhân, vì dường như sự an toàn của họ chỉ có thể được đảm bảo bằng cách có được vũ khí hạt nhân và thể hiện sự sẵn sàng sử dụng chúng. Một thời đại chạy đua phổ biến vũ khí hạt nhân sẽ xảy ra sau đó, gây tổn hại lớn cho an ninh toàn cầu.

(Còn tiếp một phần)