12/06/1898: Philippines tuyên bố độc lập

Emilio Aguinaldo

Nguồn:Philippine independence declared”, History.com (truy cập ngày 12/06/2016)

Biên dịch: Nguyễn Ngọc Tường Ngân

Trong chiến tranh Mỹ – Tây Ban Nha, phiến quân Philippines do Emilio Aguinaldo lãnh đạo đã tuyên bố độc lập cho Philippines sau 300 năm cai trị của Tây Ban Nha. Tới giữa tháng Tám, phiến quân Philippines và quân đội Hoa Kỳ đã lật đổ được Tây Ban Nha, nhưng hy vọng của Aguinaldo về nền độc lập đã tiêu tan khi Hoa Kỳ chính thức sáp nhập Philippines theo nội dung hiệp ước hòa bình với Tây Ban Nha.

Philippines, một quần đảo lớn nằm ngoài khơi Đông Nam Á, đã bị xâm chiếm bởi người Tây Ban Nha trong nửa sau thế kỷ 16. Sự chống đối nền cai trị của Tây Ban Nha đã bắt đầu từ các linh mục người Philippines, những người phản đối sự thống trị của người Tây Ban Nha trong các nhà thờ Công giáo La Mã trên quần đảo này.

Vào cuối thế kỷ 19, các trí thức Philippines và tầng lớp trung lưu bắt đầu kêu gọi độc lập cho nước này. Năm 1892, Katipunan, một tổ chức cách mạng bí mật, đã được thành lập tại Manila, thủ đô Philippines trên đảo Luzon. Số lượng thành viên đã tăng đáng kể, và vào tháng 8 năm 1896, Tây Ban Nha đã phát hiện ra kế hoạch nổi loạn của Katipunan, khiến các phiến quân phải ra tay hành động sớm hơn kế hoạch. Cuộc khởi nghĩa nổ ra trên khắp đảo Luzon, và vào tháng 3 năm 1897, Emilio Aguinaldo, 28 tuổi, đã trở thành lãnh đạo của cuộc nổi loạn.

Đến cuối năm 1897, các nhà cách mạng đã bị dồn vào những ngọn đồi phía đông nam Manila, và Aguinaldo đã đàm phán một thỏa thuận với người Tây Ban Nha. Để đổi lại một khoản bồi thường tài chính và một lời hứa cải cách ở Philippines, Aguinaldo và các tướng lĩnh của ông sẽ chấp nhận sống lưu vong ở Hồng Kông. Các nhà lãnh đạo cuộc nổi dậy rời đi, và cuộc cách mạng Philippine tạm thời kết thúc.

Vào tháng Tư năm 1898, chiến tranh Mỹ – Tây Ban Nha nổ ra xung quanh sự đàn áp tàn bạo của Tây Ban Nha đối với một cuộc nổi loạn ở Cuba. Chiến thắng đầu tiên trong một loạt các chiến thắng mang tính quyết định của Hoa Kỳ đã diễn ra vào ngày 01/05/1898, khi Hải đoàn Châu Á của Hoa Kỳ dưới quyền Phó Đề đốc George Dewey tiêu diệt hạm đội Thái Bình Dương của Tây Ban Nha trong Trận Vịnh Manila ở Philippines. Từ nơi lưu vong, Aguinaldo đã dàn xếp với chính quyền Hoa Kỳ để trở về Philippines và hỗ trợ Mỹ trong cuộc chiến chống Tây Ban Nha. Ông về nước vào ngày 19 tháng 5, tập hợp các nhà cách mạng của mình, và bắt đầu giải phóng các thành phố phía nam Manila. Vào ngày 12/06, ông tuyên bố độc lập cho Philippines và thành lập một chính phủ cấp tỉnh mà sau đó ông nắm quyền lãnh đạo.

Trong khi đó, các thành viên cuộc nổi dậy của ông đã bao vây quân Tây Ban Nha ở Manila, và với sự hỗ trợ từ hải đội của Dewey ở Vịnh Manila, sẽ chắc chắn chiến thắng được người Tây Ban Nha. Tuy nhiên, Dewey đã chờ lực lượng bộ binh Hoa Kỳ vốn bắt đầu đổ bộ vào tháng Bảy và chiếm các vị trí của người Philippines xung quanh Manila. Ngày 8 tháng 8, chỉ huy của Tây Ban Nha thông báo với Mỹ rằng ông sẽ giao nộp thành phố với hai điều kiện: Hoa Kỳ sẽ vờ tiến quân như thể đang tiến hành một trận chiến, và các phiến quân của Philippines không được phép vào thành phố dưới bất kỳ điều kiện nào. Vào ngày 13, trận đánh giả tại Manila đã diễn ra, và người Mỹ giữ lời hứa của mình và ngăn người Philippines không được vào thành phố sau khi nó đã rơi vào tay họ.

Trong khi người Mỹ chiếm đóng Manila và lên kế hoạch tiến hành các cuộc đàm phán hòa bình với Tây Ban Nha, Aguinaldo đã triệu tập một hội đồng cách mạng, gọi là Malolos, vào tháng Chín. Họ đã soạn thảo một bản hiến pháp dân chủ đầu tiên ở châu Á, và một chính phủ đã được thành lập với Aguinaldo làm tổng thống vào tháng Giêng năm 1899. Ngày 4 tháng Hai, cuộc Khởi nghĩa Philippine đã bắt đầu khi các phiến quân Philippines và lính Mỹ xung đột với nhau bên trong khu vực chiếm đóng của Mỹ tại Manila . Hai ngày sau đó, Thượng viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu với chênh lệch chỉ một phiếu để phê chuẩn Hiệp ước Paris với Tây Ban Nha. Philippines bây giờ trở thành một lãnh thổ Hoa Kỳ, được mua lại với giá 20 triệu đô la bồi thường cho người Tây Ban Nha.

Đáp lại, Aguinaldo chính thức tiến hành cuộc nổi dậy, lần này là chống lại Hoa Kỳ. Các phiến quân, thường xuyên bị đánh bại trong các trận đánh chính quy, đã quay sang tiến hành chiến tranh du kích, và Quốc hội Hoa Kỳ đã cho phép triển khai 60.000 quân để khuất phục họ. Đến cuối năm 1899, đã có 65.000 binh sĩ Hoa Kỳ tại Philippines, nhưng cuộc chiến vẫn kéo dài. Nhiều người chống chủ nghĩa đế quốc ở Mỹ, chẳng hạn như ứng cử viên tổng thống của đảng Dân chủ William Jennings Bryan, đã phản đối việc sáp nhập Philippines của Hoa Kỳ, nhưng vào tháng 11 năm 1900, tổng thống đương nhiệm của Đảng Cộng hòa là William McKinley đã tái đắc cử, và chiến tranh tiếp diễn.

Ngày 23 tháng 3 năm 1901, trong một chiến dịch táo bạo, tướng Hoa Kỳ là Frederick Funston và một nhóm sĩ quan giả vờ làm tù nhân đã khiến Aguinaldo bất ngờ ngay trong thành trì của mình tại làng Palanan trên đảo Luzon và Aguinaldo đã bị bắt giữ. Aguinaldo thề trung thành với Hoa Kỳ và kêu gọi chấm dứt cuộc nổi loạn, nhưng nhiều chiến sĩ của ông đã tiếp tục chiến đấu. Trong năm sau đó, các lực lượng Hoa Kỳ dần dần bình định được Philippines. Trong một sự kiện tai tiếng, các lực lượng của Hoa Kỳ trên đảo Samar đã trả đũa một vụ thảm sát một đơn vị đồn trú của Hoa Kỳ bằng cách giết chết tất cả đàn ông con trai trên 10 tuổi trên đảo. Nhiều phụ nữ và trẻ em cũng bị sát hại. Tướng Jacob Smith, người chỉ đạo vụ thảm sát, đã bị Tòa án binh xét xử và buộc phải nghỉ hưu vì đã biến Samar, theo lời ông, thành một nơi của sự “hoang dã”.

Năm 1902, một chính phủ dân sự của Mỹ đã nắm quyền quản lý Philippines, và các cuộc nổi dậy kéo dài ba năm của Philippines đã được tuyên bố kết thúc. Tuy nhiên, sự kháng cự vẫn diễn ra rải rác, kéo dài trong nhiều năm.

Hơn 4.000 người Mỹ đã thiệt mạng trong quá trình trấn áp Philippines – gấp hơn 10 lần số binh lính thiệt mạng trong Chiến tranh Mỹ – Tây Ban Nha. Hơn 20.000 quân nổi dậy Philippines cũng đã bị giết chết, và một số không rõ thường dân đã thiệt mạng.

Năm 1935, Khối thịnh vượng chung Philippines được thành lập với sự chấp thuận của Hoa Kỳ, và Manuel Quezon được bầu làm tổng thống đầu tiên của nước này. Vào ngày 04/07/1946, Hoa Kỳ đã trao trả độc lập hoàn toàn cho Cộng hòa Philippines.

Hình: Chân dung Emilio Aguinaldo.

[efb_likebox fanpage_url=”DAnghiencuuquocte” box_width=”420″ box_height=”” locale=”en_US” responsive=”0″ show_faces=”1″ show_stream=”0″ hide_cover=”0″ small_header=”0″ hide_cta=”0″ ]