Tại sao chiến tranh lạnh Trung-Mỹ sẽ không xảy ra?

Nguồn: Ngaire Woods, “Why a Sino-American Cold War Won’t Happen”, Project Syndicate, 22/10/2018.

Biên dịch: Nguyễn Tuấn Anh | Biên tập: Lê Hồng Hiệp

Người ta thường nói rằng Hoa Kỳ và Trung Quốc – hai cường quốc có mâu thuẫn kinh tế, địa chính trị và tư tưởng – đang hướng tới một cuộc chiến tranh lạnh mới. Và luận điệu – ít nhất đến từ một phía – đã trở nên giống với bài phát biểu “Bức màn sắt” của Winston Churchill năm 1946, một trong những sự kiện khai màn của Chiến tranh Lạnh. Chỉ mới tháng này, Phó Tổng thống Mỹ Mike Pence đã cáo buộc Trung Quốc có những hành động trục lợi về kinh tế, gây hấn về quân sự chống lại Hoa Kỳ, và cố gắng làm suy yếu Tổng thống Mỹ Donald Trump.

Nhưng bất chấp sự thổi phồng rùm beng của phương tiện truyền thông , một cuộc chiến tranh lạnh mới không phải là không thể tránh khỏi – thậm chí là khó có thể xảy ra. Do lo sợ tình trạng bất ổn và bất kỳ sự suy yếu nào trong tính chính danh của Đảng Cộng sản Trung Quốc, các nhà lãnh đạo Trung Quốc chắc chắn quyết tâm ngăn chặn Hoa Kì gây sức ép nhằm thay đổi hệ thống chính trị và kinh tế của Trung Quốc. Trung Quốc sẽ tiếp tục theo đuổi các cải cách theo nhịp độ và chủ trương  của riêng mình. Đối với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, ưu tiên hàng đầu là nhất thể hóa bộ máy Đảng với bộ máy chính quyền để hạn chế tham nhũng và đánh bóng lí tưởng ý thực hệ của nhà nước. Bất kỳ nỗ lực nào can thiệp vào tiến trình này đều được coi là vi phạm chỉ giới đỏ.

May mắn thay cho Tập, Trump không quan tâm đến việc “dân chủ hóa” các quốc gia khác, và ông dường như không bị chi phối bởi những gã khổng lồ trong lĩnh vực đầu tư, tài chính và công nghệ của Mỹ vốn mong muốn chính quyền của ông gây sức ép với Trung Quốc nhằm mở rộng khả năng tiếp cận nền kinh tế nước này.

Rõ ràng là việc Hoa Kỳ đe dọa áp thuế đã ảnh hưởng đến 18% số hàng xuất khẩu của Trung Quốc sang Hoa Kỳ mỗi năm. Nhưng chính quyền Trump có những ưu tiên cấp bách hơn là thay đổi hệ thống chính trị của Trung Quốc, bất chấp luận điệu nảy lửa của Đại diện Thương mại Mỹ Robert Lighthizer và Giám đốc Hội đồng Thương mại Quốc gia Nhà Trắng Peter Navarro. Trump có tham vọng đầy táo bạo về việc củng cố ngành chế tạo của Mỹ bằng cách đưa về nước các chuỗi cung ứng toàn cầu và ngăn chặn hoặc cắt giảm nhập khẩu. “Đưa nước Mỹ vĩ đại trở lại” thực tế là đưa ngành chế tạo quay trở lại Mỹ.

Tuy nhiên, ngay cả khi cuộc đối đầu Mỹ-Trung ngày nay không phát triển thành một cuộc chiến tranh lạnh mới, nó có thể làm suy yếu cả hai quốc gia và mở ra một thế giới đa cực hơn. Tại Trung Quốc, các luận điệu về thuế quan và các biện pháp trừng phạt của Mỹ có thể tạo uy thế cho các nhà phê bình chỉ trích Tập. Hơn nữa, Trung Quốc hiện chỉ có những lựa chọn hạn chế để trả đũa Mỹ. Đúng là nước này có thể bắt đầu bán tháo một phần trong số 1 nghìn tỷ đô la trái phiếu chính phủ Mỹ. Nhưng điều đó sẽ làm suy giảm giá trị số trái phiếu chính phủ Mỹ mà nước này đang nắm giữ.

Tại Hoa Kỳ, quyết định của Trump về áp thuế nhập khẩu trên diện rộng đã được một đại diện trong ngành công nghiệp mô tả là “hành động thương mại tự hủy diệt rõ nhất mà tôi từng thấy.” Và việc chính quyền Trump đàm phán lại Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ – bao gồm một điều khoản ngăn chặn Canada hoặc Mexico đàm phán với Trung Quốc – đã gặp phải thái độ khinh thị tương tự. Chính sách như vậy của Mỹ đã đe dọa hủy hoại công ăn việc làm trong nước và khiến các đồng minh của nước này xa lánh, và nhiều nước cũng đã tìm cách rời xa Mỹ.

Thật vậy, lập trường “nước Mỹ trên hết” của chính quyền Trump ngày càng được hiểu thành “nước Mỹ đơn độc.” Giờ đây Hoa Kỳ trở thành tiếng nói lẻ loi trong G7, G20 và Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu. Sau khi Trump rút Mỹ ra khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), các bên còn lại vẫn tự mình hướng về phía trước. Thay vì thiết lập các điều khoản trong cuộc tranh luận về các vấn đề quốc tế, chính quyền Trump đã “thuyết phục” các nước khác giảm sự phụ thuộc  vào vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ.

Sự lãng tránh Hoa Kỳ trên diện rộng sẽ đẩy nhanh sự xuất hiện của một trật tự đa cực mới. Chẳng hạn, bằng cách rút khỏi thỏa thuận hạt nhân với Iran, Trump đã thực sự khuyến khích Anh, Pháp, Đức, Trung Quốc, Nga, và Liên minh châu Âu chối bỏ các đặc quyền của Mỹ.

Hiện tại, các nước phụ thuộc vào dầu của Iran có thể không có lựa chọn nào khác ngoài việc nghe theo Mỹ. Giống như hầu hết các mặt hàng được giao dịch, xuất khẩu dầu được thanh toán bằng đồng đô la – chủ yếu thông qua Hiệp hội Viễn thông Tài chính Liên ngân hàng Toàn cầu (SWIFT) ở Bỉ – và Hoa Kỳ có quyền đóng cửa các giao dịch đó. Hầu hết các công ty và quốc gia đã kết luận rằng vì kinh doanh với Iran mà đánh mất quyền thâm nhập vào thị trường Mỹ và hệ thống thanh toán quốc tế bằng đồng đô la là một điều không đáng.

Nhưng trong tương lai, những nước này có thể không còn phải đưa ra những nhượng bộ như vậy nữa. Vào ngày 21 tháng 8, Ngoại trưởng Đức Heiko Maas đã thúc giục châu Âu thiết lập các kênh thanh toán độc lập với Hoa Kỳ. Và tháng tiếp theo, ủy viên phụ trách chính sách đối ngoại của EU đã công bố kế hoạch hình thành một “công cụ chuyên dụng” để “hỗ trợ và trấn an các doanh nghiệp theo đuổi việc kinh doanh hợp pháp với Iran.”

Trong khi đó, Nga nói rằng họ đang phát triển một hệ thống riêng của mình trong giao dịch tài chính để bảo vệ bản thân khỏi bị loại khỏi hệ thống SWIFT trong trường hợp các biện pháp trừng phạt khắc nghiệt  của Hoa Kỳ được đưa ra. Và ít nhất kể từ năm 2015, Trung Quốc cũng theo đuổi một dự án tương tự khi Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đã thiết lập một hệ thống để tạo thuận lợi cho các giao dịch xuyên biên giới bằng đồng nhân dân tệ.

Không có hệ thống thay thế nào trong số này cạnh trạnh được với sự tiện lợi của SWIFT và hệ thống đồng đô la. Nhưng nếu một hệ thống mới được duy trì, nó có thể nhanh chóng làm quyền lực của Mỹ suy yếu.

Thay vì hướng tới một cuộc chiến tranh lạnh, thế giới có thể đang hướng đến một hệ thống quốc tế do bốn cường quốc lãnh đạo, với Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nga và Đức thống trị các khu vực riêng của mình và tìm cách đạt được ưu thế thông qua các cuộc đàm phán quốc tế. Kịch bản như vậy gợi nhớ đến tầm nhìn thời Thế chiến II của Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt, người đã đề xuất rằng bốn đồng minh chiến thắng – Mỹ, Anh, Trung Quốc và Liên Xô – đóng vai trò là “Bốn cảnh sát viên”, mỗi bên giám sát vùng ảnh hưởng của mình và đàm phán với nhau nhằm duy trì hòa bình thế giới.

Ngày nay, gần như bốn cường quốc tương tự lại một lần nữa đứng mũi chịu sào, chỉ có điều giờ đây chúng ta có những thể chế mạnh mẽ hơn giúp gìn giữ hòa bình. Liệu hòa bình có kéo dài hay không phụ thuộc vào sự sẵn lòng của bốn cường quốc trong việc sử dụng và điều chỉnh các thể chế này cho phù hợp với hệ thống quốc tế mới đang hình thành.

Ngaire Woods là Hiệu trưởng sáng lập Trường quản trị chính quyền Blavatnik tại Đại học Oxford.