Nguồn: Yasheng Huang, “Can the Belt and Road Become a Trap for China?”, Project Syndicate, 22/05/2019.
Biên dịch: Phan Nguyên
Các nhà phê bình thường cho rằng Trung Quốc đang sử dụng Sáng kiến Vành đai và Đường bộ (BRI) khổng lồ của mình như một hình thức “ngoại giao bẫy nợ” manh tính cưỡng ép để kiểm soát các quốc gia tham gia chương trình đầu tư cơ sở hạ tầng xuyên quốc gia này. Nguy cơ này, như Deborah Brautigam của Đại học John Hopkins gần đây lưu ý, thường bị truyền thông phóng đại. Trên thực tế, BRI có thể trở thành một loại rủi ro khác – đối với ngay chính Trung Quốc.
Tại hội nghị thượng đỉnh BRI gần đây tại Bắc Kinh, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình dường như ghi nhận các chỉ trích về bẫy nợ. Trong bài phát biểu của mình, ông Tập nói rằng “xây dựng cơ sở hạ tầng chất lượng cao, bền vững, ít rủi ro, giá cả hợp lý và có sự tham gia của nhiều bên sẽ giúp các quốc gia tận dụng tối đa các nguồn lực tài nguyên của họ”.
Đây là một tín hiệu đáng khích lệ, vì nó cho thấy Trung Quốc đã nhận thức rõ hơn tác động về nợ của BRI. Một nghiên cứu của Trung tâm Phát triển Toàn cầu đã kết luận rằng tám trong số 63 quốc gia tham gia BRI có nguy cơ bị khủng hoảng nợ.
Nhưng như John Maynard Keynes từng nói một câu nổi tiếng, “Nếu bạn nợ ngân hàng một trăm bảng, bạn là người có vấn đề. Nhưng nếu bạn nợ ngân hàng một triệu bảng, thì ngân hàng mới là người có vấn đề”. Trong bối cảnh BRI, Trung Quốc có thể trở thành chủ ngân hàng đang bị khách hàng nợ một triệu bảng.
Cụ thể, Trung Quốc có thể trở thành nạn nhân của “mô hình mặc cả lỗi thời” (obsolescing bargain model). Mô hình này nói rằng một nhà đầu tư nước ngoài sẽ giảm dần sức mạnh đàm phán khi gia tăng đầu tư vào một quốc gia sở tại. Các dự án cơ sở hạ tầng như những dự án BRI là một ví dụ kinh điển, bởi vì chúng có quy mô lớn, gắn cố định với nơi đầu tư và không có giá trị kinh tế nếu không được hoàn thành.
Không có gì đáng ngạc nhiên khi một số quốc gia đối tác BRI hiện đang yêu cầu đàm phán lại các điều khoản và thường là sau khi các dự án đã bắt đầu. Trung Quốc có thể buộc phải đưa ra những nhượng bộ thuận lợi hơn bao giờ cho hết cho các nước đi vay để giữ cho các dự án này đi đúng hướng. Ví dụ, vào giữa tháng 4, Malaysia tuyên bố rằng một dự án đường sắt BRI lớn, bị chính phủ nước này trì hoãn sau cuộc bầu cử năm ngoái, giờ sẽ tiếp tục sau khi đàm phán lại. Theo các thông tin báo chí, chi phí xây dựng đã được giảm tới một phần ba. Các quốc gia BRI khác có thể cũng sẽ yêu miễn giảm nợ, và các chi phí cuối cùng cho việc đó sẽ đổ lên đầu người tiết kiệm Trung Quốc.
BRI có thể gây ra thêm các chi phí ẩn cho Trung Quốc về lâu dài. Thứ nhất, rất khó để kiếm tiền từ các dự án cơ sở hạ tầng. Có một niềm tin rộng khắp cho rằng đầu tư cơ sở hạ tầng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhưng bằng chứng cho điều này là không nhiều. Trên thực tế, chính Trung Quốc đã xây dựng phần lớn cơ sở hạ tầng hiện tại sau khi tăng trưởng đã diễn ra. Chẳng hạn, vào những năm 1980 và 1990, Trung Quốc tăng trưởng nhanh hơn nhiều so với Ấn Độ mặc dù có mạng lưới đường sắt ngắn hơn. Theo Ngân hàng Thế giới, năm 1996 Trung Quốc có 56.678 km đường sắt, và Ấn Độ đã có tới 62.915 km. Tăng trưởng của Trung Quốc không phải là do đầu tư vào cơ sở hạ tầng, mà do cải cách và đầu tư vốn con người. Nếu tăng trưởng không diễn ra ở các nước tham gia BRI, các công ty Trung Quốc có thể sẽ phải gánh chịu hậu quả.
Hơn nữa, nhiều quốc gia đối tác BRI của Trung Quốc chứa nhiều rủi ro – bao gồm Pakistan, một nước nhận đầu tư lớn theo chương trình này. Ngoài các rủi ro chính trị, kinh tế và vỡ nợ cao, quốc gia này cũng có thành tích kém về giáo dục. Theo một báo cáo, Pakistan xếp thứ 180 trong số 221 quốc gia về xóa mù chữ. Đây là một rủi ro tiềm tàng cho các khoản đầu tư của Trung Quốc vào Pakistan, bởi vì nghiên cứu cho thấy rằng đầu tư vào cơ sở hạ tầng vật chất chỉ thúc đẩy tăng trưởng ở các quốc gia có mức vốn con người cao. Bản thân Trung Quốc được hưởng lợi từ các khoản đầu tư cơ sở hạ tầng vì họ cũng đã đầu tư rất nhiều vào giáo dục.
BRI cũng không nên được so sánh với Kế hoạch Marshall, một chương trình viện trợ của Hoa Kỳ nhằm giúp tái thiết Tây Âu sau Thế chiến II, như một ví dụ về cách các dự án đầu tư quy mô lớn có thể thúc đẩy tăng trưởng. Kế hoạch Marshall đã rất thành công – với chi phí chỉ bằng một phần nhỏ so với BRI – bởi vì nó đã giúp các quốc gia nhìn chung được quản trị tốt nhưng tạm thời bị tàn phá bởi chiến tranh. Viện trợ phát huy hiệu quả như một biện pháp kích thích tăng trưởng trở lại. Ngược lại, một số quốc gia BRI đang gặp khó khăn bởi các vấn đề kinh tế và quản trị và thiếu các yêu cầu cơ bản giúp thúc đẩy tăng trưởng. Việc chỉ xây dựng cơ sở hạ tầng thôi sẽ là chưa đủ.
Cuối cùng, BRI có thể tăng cường hơn nữa khu vực quốc doanh của Trung Quốc, do đó làm gia tăng một trong những mối đe dọa lâu dài đối với nền kinh tế nước này. Theo nghiên cứu của Viện Doanh nghiệp Mỹ, các doanh nghiệp tư nhân chỉ chiếm 28% các khoản đầu tư BRI trong nửa đầu năm 2018 (dữ liệu mới nhất hiện có), giảm 12 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2017.
Quy mô khổng lồ của BRI, cùng với khả năng sinh lợi thấp của khu vực quốc doanh Trung Quốc, có nghĩa là các dự án theo chương trình này có thể cần sự hỗ trợ đáng kể từ các ngân hàng Trung Quốc. Các khoản đầu tư BRI do đó chắc chắn sẽ hút bớt các nguồn vốn – và nguồn lực ngoại hối ngày càng quý giá – khỏi khu vực tư nhân trong nước của Trung Quốc, vốn đang phải đối mặt với gánh nặng thuế cao và căng thẳng do cuộc chiến thương mại với Mỹ gây ra.
Hơn nữa, các công ty phương Tây, một thành phần quan trọng của khu vực tư nhân Trung Quốc, đang rút ra khỏi nước này. Một số công ty Mỹ, bao gồm Amazon, Oracle, Seagate và Uber – cũng như Samsung và SK Hynix của Hàn Quốc, cùng Toshiba, Mitsubishi và Sony của Nhật – đã giảm quy mô hoạt động tại Trung Quốc hoặc quyết định chuyển hoàn toàn ra khỏi nước này. Cũng một phần vì xu hướng này, đầu tư trực tiếp nước ngoài của Mỹ vào Trung Quốc năm 2017 chỉ đạt 2,6 tỷ đô la so với 5,4 tỷ đô la năm 2002.
Đây là một diễn tiến đáng lo ngại. Thông qua BRI, Trung Quốc đang xây dựng quan hệ với một số quốc gia độc đoán nhất thế giới, thiếu minh bạch tài chính và lạc hậu về kinh tế. Đồng thời, chiến tranh thương mại, khu vực quốc doanh ngày càng mạnh và chủ nghĩa bảo hộ đang làm Trung Quốc ngày một xa rời phương Tây.
Trung Quốc đã tăng trưởng và có được năng lực thực hiện các dự án BRI chính là nhờ đã mở cửa nền kinh tế trước xu thế toàn cầu hóa, và nhờ các công nghệ và bí quyết của phương Tây. Trái với sự hợp tác với phương Tây, BRI có thể kéo theo những rủi ro và bất định có thể trở thành gánh nặng đối với nền kinh tế Trung Quốc. Khi nền kinh tế chậm lại và triển vọng xuất khẩu ngày càng u ám do các yếu tố địa chính trị, Trung Quốc cần phải xem xét lại tốc độ, phạm vi và quy mô của sáng kiến BRI.
Yashen Huang là Giáo sư Chương trình Quốc tế về Kinh tế và Kinh doanh Trung Quốc, và là Giáo sư về Kinh tế và Quản trị Toàn cầu tại Trường Quản trị Sloan thuộc MIT.