NỘI QUY: Các thành viên tự chịu trách nhiệm về các nội dung mình chia sẻ trên nguyên tắc tuân thủ pháp luật, tôn trọng lẫn nhau.
- This topic has 1 reply, 2 voices, and was last updated 7 years, 9 months ago by RogerKen.
-
AuthorPosts
-
-
20/11/2014 at 19:49 #4493TQNamModerator
Chính quyền Kennedy & Thuốc diệt cỏ tại Việt Nam
Điểm luận án Lao vào gió xoáy: Chính quyền Kennedy và việc sử dụng thuốc diệt cỏ ở miền Nam Việt Nam của Evelyn Krache Morris.
Tại điểm hội ngộ của lịch sử môi trường, lịch sử công nghệ, và lịch sử quan hệ đối ngoại, luận án của Evelyn Krache Morris bàn về vai trò của việc phun thuốc diệt cỏ từ trên không ở miền Nam Việt Nam dưới thời chính quyền Kennedy. Cô lập luận trong phần giới thiệu / Chương 1 rằng, trước khi Lyndon Johnson nhậm chức tổng thống, Kennedy đã lạm dụng việc làm rụng lá và tàn phá cây cối trong chiến lược của Mỹ đối với Việt Nam (hai thuốc diệt cỏ chứa phenol 2,4-D, và 2,4,5 –T, được sử dụng đem phun từ sớm). Chương trình này là lần đầu tiên đem phun thuốc diệt cỏ từ trên không chống lại nước khác và cũng là lần đầu tiên phun từ trên không để triệt phá nguồn lương thực (tr. 169-170). Khi tìm phương thuốc hữu hiệu cho “vấn đề chính sách đối ngoại phức tạp” (tr. 4), Kennedy và các cố vấn của ông đặt niềm tin vào sự khai phá công nghệ và cơ sở thông tin định lượng thay cho đội quân thường quy trên mặt đất. Tuy nhiên, có một sự bất tương hợp nảy sinh giữa lời cam kết về việc phun thuốc diệt cỏ với tác động của nó đối với người dân miền Nam Việt Nam. Như Krache Morris lập luận, “hậu quả của nó […] thật thảm khốc. Việc sử dụng một loại vũ khí mới, chưa được thử nghiệm và gây tranh cãi, đã vây khốn chính quyền, và đất nước ngày càng bị ràng buộc vào miền Nam Việt Nam “(tr. 33).
Trong Chương 2 Krache Morris cho thấy rằng, bất chấp triển vọng “Tân biên giới” của Kennedy, cái tư duy ý thức hệ tương tự đã dẫn tới cách tiếp cận của Eisenhower trước sự lây lan toàn cầu của chủ nghĩa cộng sản khi xưa cũng dẫn đến nhận thức về chất làm rụng lá như là một phương thuốc trị bá bịnh trong giới thân cận nhất của vị tổng thống trẻ. Thật vậy, Kennedy đã phê duyệt mục tiêu cho cái gọi là Chiến dịch Ranch Hand “bùng lên bởi cả nỗi sợ hãi chủ nghĩa cộng sản lẫn khát vọng hành động” (tr. 35). Đúng hơn, chính sáng kiến đối ngoại, chính quyền đã hóa phép cho ra loại lính mới – thực ra chẳng mấy rành chuyên môn ở Việt Nam và thậm chí nói chẳng nên mấy lời – quay sang thay thế cho phương pháp định lượng và công nghệ quân sự mới. Trong chương 3 Krache Morris nêu tầm quan trọng về công nghệ và thông tin định lượng trong bối cảnh triển vọng của chính quyền Kennedy đối với Việt Nam. Có một chút bằng chứng nổi tiếng khi Phó Cố vấn An ninh Quốc gia Walt Rostow thuyết phục Kennedy rằng một khi cuộc bầu cử ở Việt Nam được hoàn tất vào tháng Tư năm 1961, “Tôi tin rằng chúng ta phải chuyển sang hành động trên toàn Việt Nam [… với] các kỹ thuật và công cụ khác nhau”(tr. 88).
Chương 4 cho thấy tầm quan trọng của thí nghiệm trong nước Mỹ về việc phun từ trên không trong thập kỷ trước cho phép sử dụng nó như là một công nghệ quân sự. Các công ty, như Dow Chemical, cam kết đời sống các vùng ngoại ô và nông dân tốt hơn dưới tác động của hóa chất. Vì vậy, chẳng ngạc nhiên gì khi cuộc nghiên cứu gợi ý rằng 2,4-D và 2,4,5-T có thể có tác hại đối với các loài động thực vật, công ty hóa chất và các công bố thương mại cho là các hóa chất sử dụng đều an toàn. Có lẽ điều quan trọng là chúng không chỉ là nguy hiểm mà còn có hiệu quả. Trong chương 5 Krache Morris cho thấy rằng nó không chỉ là một giải pháp kỳ vọng trong chính quyền Kennedy mà còn đối với Tổng thống Nam Việt Nam Ngô Đình Diệm. Ông ta đã yêu cầu cho thử nghiệm trước khi Kennedy phê duyệt cho phun từ trên không theo Bị vong lục về hoạt động an ninh quốc gia (NSAM) tháng 11 năm 1961. Krache Morris giải thích trong đoạn mở đầu của chương 6 “NSAM 115 chỉ là một sự phê chuẩn những gì đã diễn ra tại miền Nam Việt Nam” (tr. 155).
Chương trình này là một mớ hổ lốn ngay từ đầu. Chương 6 và 7 cho thấy việc phun thuốc từ trên không có thể là cả một sự đau đầu về chính sách đối ngoại lẫn hậu cần. Mỹ đã phải lách các quy định của Ủy ban kiểm soát quốc tế giám sát lệnh cấm nhập khẩu thiết bị quân sự của cả hai bên xung đột. Sau khi phun thiết bị bắt đầu thường xuyên bị trục trặc. Người ta chẳng có mấy hiểu biết về các khu rừng và các vùng đất xa lạ của miền Nam Việt Nam. Các cãi cọ quan liêu nổi lên trong chính phủ Kennedy như chuyện ai nắm quyền triển khai và thực hiện chương trình nầy. Trong nhiệm vụ phá hủy lương thực việc xác định các loại cây trồng của Việt Cộng so với dân thường thì hầu như là bất khả. Rồi phương tiện truyền thông Mỹ và quốc tế đặt ra câu hỏi về sự an toàn của chương trình.
Krache Morris tỏ ra có sức thuyết phục rằng cuối cùng thì “các ảnh hưởng của Ranch Hand đối với môi trường miền Nam Việt Nam, và bản thân miền Nam Việt Nam đã làm xói mòn dự án” (tr. 215). Chương 8 cho thấy việc rụng lá không đat kết quả kỳ vọng. Ví dụ, sự xâm lấn của tre và cỏ Cogong đã thay thế các khu rừng thay lá bản địa và do đó đã trở thành thứ che khuất mới cho quân nổi dậy. Việc phá hủy cây trồng còn tệ hơn. Đất bị nhiễm độc và người dân bỏ đi, nhiều người trong số họ trở thành những người tị nạn tràn vào thành phố, một hậu quả từ nhiệm vụ “diệt nguồn lương thực “. Bấp chấp những thực tế đáng dây dứt, với “tấm bản đồ định vùng thực hiện rồi biểu đồ diện tích bị làm rụng lá và những tấn lương thực bị phá hủy […] phía quân đội đã có thể cung cấp những gì được coi như bản báo cáo khả tín; những ai nghi ngờ về Ranch Hand đã không thể nói gì “(p. 257). Rồi Krache Morris kết luận, sẽ mất nhiều năm nữa để hiểu đầy đủ những hậu quả sinh thái và bệnh lý của chương trình, nhưng cho đến giữa thập niên 1960, rõ ràng chương trình đã thực sự làm suy yếu cả chính phủ miền Nam lẫn bất kỳ sự hỗ trợ nào của Mỹ ở nông thôn miền đất nầy. Tuy nhiên, do cực đoan trong chính sách của Mỹ tại Việt Nam, việc phun thuốc vẫn được áp dụng cho đến năm 1971.
Điều làm cho lập luận Krache Morris hấp dẫn nhất là cô cho thấy việc phun thuốc diệt cỏ không chỉ là một công cụ trong hồ lô chính sách đối ngoại của chính quyền Kennedy. Thay vào đó, có rất nhiều câu chuyện về chất khai quang cho tới tận đầu thập kỷ 1960. Cái mấu chốt đầy thiển cận về thông tin định lượng và công nghệ mới đã lẫn tránh thực tế đau lòng rằng chính sách của Kennedy đối với Việt Nam chẳng có gì mang tính khai phá. Ông ta và các cố vấn của ông né đi cái mặt trái của những con số và những bồn hóa chất mà họ có thể tìm thấy không chỉ các giới hạn của công nghệ tiên tiến, mà còn là “việc lá rụng và hủy diệt cây cối đã không cải thiện mấy các nan đề chính trị của miền Nam Việt Nam” (tr. 276). Tìm cách lẫn tránh bóng đen của chiến tranh, chính quyền thay vào đó đã nhận ra bản thân trong cái tù mù của sự việc theo đúng nghĩa đen.
Những bài học mà Evelyn Krache Morris phát hiện ra đã vượt khỏi cuộc chiến Việt Nam, đó là vì sao luận án của cô có cả hiệu quả và lẫn giá trị. Điều này làm cho công trình của cô đồng hành tuyệt vời cùng các cuốn sách gần đây của các nhà khoa học và nghiên cứu chất độc da cam David Zierler (Một sáng kiến về hủy diệt môi trường thiên nhiên: chất độc da cam, Việt Nam và các nhà khoa học, ai thay đổi cách chúng ta suy nghĩ về môi trường, Athens, GA: nxb Đại học Georgia, 2011), David Biggs nghiên cứu về đồng bằng sông Cửu Long (Vũng lầy: Quốc gia-kiến thiết và thiên nhiên ở Đồng bằng sông Cửu long, Seattle, nxb Đại học Washington, 2012), và cuốn sách gần đây của Edwin Martini về chất độc da cam (Chất độc da cam: Lịch sử, Khoa học, và các chánh sách của sự không chắc chắn, Amherst: Nxb Đại học Massachusetts, 2012). Rộng hơn, những gì Krache Morris viết nên chắc chắn sẽ trở thành một cuốn sách tuyệt vời, nó chiếm một vị trí nổi bật trên kệ sách của các học giả quan tâm đến lịch sử công nghệ và môi trường và luận án kết nối chính sách đối ngoại với chiến tranh.
Ryan Edgington
Trợ lý Giáo sư Lịch sử Đại học MacalesterNguồn chính
The Alvin L. Young Collection on Agent Orange, National Agricultural Library, Beltsville MD
Dow Chemical Papers, Chemical Heritage Foundation, Philadelphia PA
National Security Files, John F. Kennedy Presidential Library, Boston MA
Records of the Military Assistance & Advisory Group, Vietnam, National Archives and Records Administration, College Park MD
Diệm Government Meeting Minutes, Vietnamese National Archives: National Archives II, Ho Chi Minh CityThông tin luận án
Đại học Georgetown. 2012. 296 trang, hướng dẫn chính:. David S Painter.
-
10/02/2017 at 13:16 #20269RogerKenParticipant
I present to you one of the best sex of your city chat – https://excellent-thing.ru via this website you will find a lot of erotic partners for communication and even more friends))
-
-
AuthorPosts
- You must be logged in to reply to this topic.