Thân thế, sự nghiệp và lập đạo của Muhammad

NỘI QUY: Các thành viên tự chịu trách nhiệm về các nội dung mình chia sẻ trên nguyên tắc tuân thủ pháp luật, tôn trọng lẫn nhau.

Tagged: 

Viewing 0 reply threads
  • Author
    Posts
    • #12255
      NCQT
      Keymaster

      Thân thế, sự nghiệp và lập đạo của Muhammad

      Charlie Nguyễn

      Vị giáo chủ sáng lập đạo Hồi là Muhammad, sinh năm 570 tại thành phố Mecca, thủ đô của xứ Saudi Arabia ngày nay. Sau 23 năm viết sách Thánh Kinh Koran và thuyết giảng về đạo Islam, ông qua đời tại thành phố Medina, cách Mecca khoảng 40 miles về phía Bắc, hưởng thọ 62 tuổi.

      Cuộc đời của Muhammad đã bắt đầu từ 30 năm cuối thế kỷ 6 và bắt cầu 32 năm sau qua thế kỷ 7. Tất cả những gì ảnh hưởng đến cuộc đời của Muhammad đều in dấu ấn trong thế giới đạo Hồi ngày nay. Vì vậy chúng ta cần phải tìm hiểu bối cảnh lịch sử của xã hội Ả Rập trong cả hai thế kỷ 6 và 7.

      Khác với Kinh Thánh Cựu Ước Do Thái là một tập truyện, Kinh Thánh Koran gần như một cuốn nhật ký. Đọc Kinh Koran, người ta sẽ thấy rất nhiều nét đặc thù của đời sống du mục Ả Rập, các sinh hoạt thương mại của dân Mecca, các phong tục tập quán và tín ngưỡng cổ truyền của người Ả Rập, các cuộc chiến tranh của đế quốc Ki Tô Giáo Byzantine, đế quốc Hỏa Giáo Ba Tư v.v…

      Tất cả đều được Muhammad phản ảnh trong kinh Koran. Do đó, khi đọc kinh Koran, chúng ta rất dễ dàng kiểm chứng các sự kiện bằng cách đối chiếu với lịch sử. Ngược lại, sự nghiên cứu lịch sử về bối cảnh bán đảo Ả Rập trong thế kỷ 6 và 7 sẽ giúp chúng ta hiểu biết rõ ràng hơn về Muhammad cũng như về đạo Islam.

      1. Về địa dư:

      Bán đảo Ả Rập là một hình chữ nhật chiều dài 1200 miles, rộng 900 miles. Diện tích trên một triệu dặm vuông, lớn bằng 1/3 Hoa Kỳ hoặc bằng 8 lần diện tích Việt Nam. Sở dĩ vùng này được gọi là bán đảo vì nó được bao bọc ba phía bởi biển hoặc đại dương: Đông giáp Vịnh Ba Tư, Nam giáp Ấn Độ Dương và phía Tây giáp Hồng Hải (Biển Đỏ). Phía Bắc của bán đảo này là vùng sa mạc hoang vu chạy dài tới biên giới Syria và Palestine. Người ta gọi nó là sa mạc Syro-Arabia vì nó ở giữa hai nước Ả Rập và Syria. Đi băng qua sa mạc này bằng đường bộ là một điều nguy hiểm nếu không dự trữ đủ nước uống. Khách lữ hành phải đi những quãng đường rất xa mới gặp được một ốc đảo (oasis). Các ốc đảo trong sa mạc được tạo thành do những hồ nước ngầm ở dưới mặt đất (underground pools). Khí hậu sa mạc rất khô, thường chỉ có mưa vào mùa xuân. Vùng có mưa nhiều nhất là miền cực nam bán đảo Ả Rập, tức nước Yemen ngày nay.

      2. Dân cư:

      Bán đảo Ả Rập ngày nay được chia thành nhiều quốc gia: Nước lớn nhất là Saudi Arabia 757 ngàn dặm vuông, 23 triệu dân. Yemen 203 ngàn dặm vuông, 10 triệu dân. Oman 2.5 triệu dân, Cộng Hòa Ả Rập Emirates 2.3 triệu dân và Quatar 1 triệu dân. Đa số dân Ả Rập là con cháu xa xưa của giống người ở Địa Trung Hải và miền núi Alpes ở Âu Châu. Về phương diện chủng tộc, người Ả Rập được xếp vào chủng tộc da trắng (Whites) như người Âu. Hầu hết người Ả Rập thời xưa sinh sống bằng nghề du mục. Do đó, chính họ đã tự đặt tên cho chủng tộc của mình là Arab có nghĩa là du mục (Arab means Nomad).

      Người Ả Rập và Do Thái thù ghét nhau là do sự kỳ thị tôn giáo, sự thật Ả Rập và Do Thái đều cùng một chủng tộc. Theo Thánh Kinh Cựu Ước Do Thái thì sau cơn đại hồng thủy, cả nhân loại chết hết, chỉ còn lại một gia đình của ông Noah sống sót mà thôi. Con trai lớn của ông Noah là Shem trở thành tổ tiên của các giống dân Do Thái và Ả Rập. Do đó, phát sinh danh từ “Semites” để gọi chung Do Thái và Ả Rập. Semites có nghĩa là “con cháu của Shem” (Semites: Descendants of Shem).

      Mới đây, một số nhà khoa học về nhân chủng đã làm một cuộc thử nghiệm DNA trên nhiều người Do Thái và nhiều người Ả Rập tại Iraq, Arabia, Yemen và Syria. Họ công bố kết quả thử nghiệm đã xác nhận người Do Thái và các giống dân Ả Rập đều cùng chung một mẫu DNA, tức cùng chung một nguồn gốc tổ tiên. Chẳng những vậy, họ đều có chung một nguồn gốc văn hóa từ Babylon. Ngôn ngữ cổ của Babylon là Sumerian, ngôn ngữ cổ Do Thái là Hebrew và ngôn ngữ Arabic đều có nhiều nét tương đồng. Ngôn ngữ của Muhammad và của Kinh Koran là ngôn ngữ Ả Rập (Arabic) hiện là ngôn ngữ chính của 250 triệu người thuộc nhiều quốc gia ở Trung Đông.

      3. Chính Trị và Tôn Giáo:

      Trong thế kỷ 6 và nửa đầu thế kỷ 7, toàn vùng Trung Đông bị chia thành hai miền đặt dưới sự khống chế của hai đế quốc: Đế quốc Ba Tư làm chủ miền đông gồm có Iran, Iraq, Syria và Arabia. Trong thời gian này, đế quốc Ba Tư chọn Hỏa Giáo (Zoroastrianism) làm quốc giáo và chọn Ctesiphon làm thủ đô. Đế quốc Byzantine làm chủ miền tây gồm có Hy Lạp, Do Thái, Palestine, Ai Cập và vùng Địa Trung Hải. Đế quốc Byzantine chọn Ki Tô Giáo làm quốc giáo và chọn Constantinople (nay là Istambul) làm thủ đô.

      Hai đế quốc Ba Tư và Byzantine đánh nhau liên miên từ thế kỷ 2 đến thế kỷ 7, ròng rã 500 năm. Từ đầu thế kỷ 4, đế quốc Byzantine đổi tên Ki Tô Giáo thành “Công Giáo”, tiếng Hy Lạp Katholikos có nghĩa là tôn giáo hoàn vũ (Universal Religion). Rất nhiều người Ả Rập trong vùng kiểm soát của đế quốc Byzantine theo đạo Công Giáo. Tất cả những người này thuộc quyền cai quản của Giáo Hội Syria (Syriac Church). Đến giữa thế kỷ 6, đế quốc Công Giáo Byzantine chinh phục được vua xứ Abyssinia (tức là Ethiopia ngày nay) theo đạo và cho nhiều đoàn truyền giáo xâm nhập Yemen ở cực nam bán đảo Ả Rập.

      Đế quốc Ba Tư thấy rõ âm mưu của Byzantine nên tìm cách nâng đỡ mọi người Do Thái và những người Ả Rập theo đạo Do Thái nắm chính quyền tại bán đảo Ả Rập. Năm 510 (tức 60 năm trước khi Muhammad sinh ra) với sự yểm trợ của đế quốc Ba Tư, một người Ả Rập theo đạo Do Thái là Yusuf Asai đã thống lãnh các bộ lạc Ả Rập và lên ngôi vua cai trị toàn bán đảo Ả Rập.

      Đến năm 525, đế quốc Byzantine yểm trợ cho vua Công Giáo xứ Abyssinia đem quân xâm chiếm bán đảo Ả Rập. Vua Yusuf Asai chống cự không nổi phải bỏ chạy, cuối cùng nhà vua nhảy xuống biển tự tử. Từ đó, bán đảo Ả Rập thành thuộc địa của Abyssinia và Ki Tô Giáo thành quốc giáo tại xứ này.

      Năm 570, người Ả Rập cầu cứu hoàng đế Ba Tư đem quân đánh đuổi quân Ki Tô Giáo Abyssinia. Đế quốc Ba Tư chiến thắng và biến bán đảo Ả Rập thành một tỉnh của đế quốc. Cũng từ đó, Hỏa Giáo của Ba Tư được truyền bá rộng rãi trong dân chúng Ả Rập.

      4. Phong Tục Tập Quán:

      Dù sống cuộc đời du mục ở sa mạc hay chuyên nghề thương mại sinh sống tại thành thị, mọi người Ả Rập đều thích tự xưng là “những người con của sa mạc” (sons of desert). Từ nhiều ngàn năm qua cho đến nay, người Ả Rập vẫn luôn luôn gắn bó với những con lạc đà. Chúng là những cỗ xe lý tưởng đưa họ qua sa mạc và đồng thời cũng là nguồn cung cấp sữa và thịt. Người Ả Rập ít trồng trọt nên họ thường bị thiếu ngũ cốc và bị suy dinh dưỡng. Cuộc sống sa mạc đã tạo ra hoàn cảnh khiến cho các bộ lạc du mục phải luôn luôn gây chiến với nhau để tranh chiếm các giếng nước hiếm hoi hoặc tranh chiếm các thảo nguyên để thả nuôi gia súc. Qua nhiều thế kỷ, cuộc sống du mục đã hình thành nơi các sắc dân Ả Rập những phong tục tập quán đặc biệt:

      a. Tục trả thù:

      Để có thể sống còn trong những điều kiện khắt nghiệt của sa mạc, mọi người Ả Rập phải tụ họp lại thành từng nhóm (groups) gắn bó với nhau bằng quan hệ huyết thống. Nhiều nhóm liên kết với nhau thành đoàn (clans) hoặc lớn hơn nữa thành bộ lạc (tribes). Mọi cá nhân đều phải gắn bó với quyền lợi chung của bộ lạc. Người Ả Rập gọi tinh thần gắn bó ấy là “muruwah” bao hàm rất nhiều ý nghĩa: phải can đảm trong chiến đấu, phải kiên nhẫn chịu đựng mọi sự đau khổ khi bộ lạc gặp khó khăn, phải cương quyết bảo vệ mọi kẻ yếu trong bộ lạc và phải quyết tâm trả thù những kẻ đã dám xâm phạm đến sinh mạng và tài sản của bộ lạc.

      Các tù trưởng có trách nhiệm bảo vệ mọi thành viên trong bộ lạc của mình. Nếu không trừng phạt những kẻ đã xâm phạm đến sinh mạng và tài sản của thành viên trong bộ lạc mình thì tù trưởng đó sẽ không còn được tín nhiệm nữa. Vì tính liên đới trách nhiệm trong bộ lạc nên trong nhiều trường hợp một người trong bộ lạc này bị giết thì một người trong bộ lạc thù địch phải bị giết để đền mạng. Luật sa mạc là nợ máu phải trả bằng máu. Bán đảo Ả Rập là một sân khấu vĩ đại của những chu kỳ bạo động không bao giờ dứt.

      Trong những thời kỳ đói kém hay hạn hán, các bộ lạc gặp khó khăn thường chọn một trong những bộ lạc thù địch để tấn công nhằm cướp gia súc, thực phẩm và hàng hóa cần thiết để sống còn. Các đàn ông của bộ lạc địch đều bị giết. Các đàn bà trẻ đẹp bị bắt đưa về làm vợ bé hay đầy tớ. Số còn lại bị đưa đi bán ở chợ nô lệ.

      Những người Ả Rập du mục không hề coi những vụ cướp của giết người như vậy là điều tội lỗi. Họ quan niệm đó chỉ là những việc làm tự nhiên để trừng phạt kẻ thù một cách hợp lý mà thôi.

      b. Tục giết các bé gái sơ sinh (Female Infanticide)

      Luật sa mạc cũng tàn nhẫn như luật rừng: Chỉ có kẻ mạnh sống sót, mọi kẻ yếu phải bị loại trừ! Việc giết các bé gái sơ sinh là một phương cách điều chỉnh dân số của các bộ lạc du mục. Lý do là một khi bộ lạc có quá nhiều con gái và quá ít con trai thì bộ lạc bị lâm vào tình trạng suy yếu. Chỉ có đàn ông con trai mới có thể đáp ứng nhu cầu sống còn của bộ lạc, đó là nhu cầu chiến đấu và nhu cầu lao động sản xuất.

      Phụ nữ bị coi rẻ nên xã hội du mục không dành cho họ một quyền lợi luật định nào (no legal right). Họ bị coi như một thứ tài sản, hay nói đúng hơn là một động sản (movabal property). Những gia đình nào đã sinh một vài đứa con gái rồi thì những bé gái sinh sau thường bị giết chết không thương tiếc.

      c. Tục cắt da qui đầu và cắt âm vật

      Theo tương truyền thì Abraham là người đầu tiên tự cắt da qui đầu của mình và cắt da qui đầu các con trai của ông để tỏ lòng tuân phục Thiên Chúa. Do đó, tục lệ cắt da qui đầu trở thành nghi lễ bắt buộc đối với mọi người theo đạo Do Thái. Tục lệ này thường được gọi là Phép Cắt Bì (Cirumcision).

      Trước khi có đạo Hồi, đa số người Ả Rập thường tự xưng là tín đồ đạo Abraham, tức Đạo Do Thái Nguyên Thủy. Họ thường cắt da qui đầu cho các bé trai giống như người Do Thái.

      Ngoài ra, người Ả Rập có tục lệ cắt bỏ một phần hoặc tất cả âm vật, còn được gọi là mồng đóc (Clitoris) của các bé gái từ 4 đến 8 tuổi. Đây là một tục lệ chung của người Ả Rập, không phân biệt tôn giáo. Hiện nay, nhiều người Ả Rập ở Ai Cập, Yemen, Sudan theo Ki Tô Giáo vẫn giữ tục lệ này. Họ tin rằng việc cắt clitoris tuy có gây đau đớn nhưng tránh cho phụ nữ những đòi hỏi sinh lý và giúp họ dễ trở nên thanh sạch cao đẹp hơn.

      d. Tục chứng minh trinh tiết cô dâu

      Một tục lệ của người Ả rập gây căng thẳng tinh thần cho các cô gái đến tuổi lấy chồng, đó là tục lệ chứng minh trinh tiết cô dâu (Proof of the bride’s Virginity). Sau đám cưới, mọi người trong gia đình cô dâu và những người khách tham dự tụ họp bên ngoài phòng ngủ cô dâu chú rễ. Sau khi động phòng, chú rễ bước ra khỏi phòng ngủ báo cáo kết quả cho mọi người biết. Nếu chú rễ tuyên bố cô dâu đã mất trinh trước đám cưới thì đây là một điều nhục nhã cho gia đình nhà gái và cuộc hôn nhân có thể bị hủy bỏ!

      e. Tục giết gái chửa hoang

      Các cô gái Ả Rập không chồng mà chửa bị coi là đã phạm trọng tội đối với danh dự của gia đình. Các cô gái này thường bị cha hoặc anh em ruột giết chết để bảo vệ danh dự gia đình. Vì thế, người Ả Rập gọi tục lệ này là “Giết người vì danh dự” (Honor Killing). Các cô gái chửa hoang thường khó có thể thoát chết vì dù có chạy đến cầu cứu các cơ quan luật pháp cũng không được bảo vệ. Các thủ phạm giết người trong trường hợp này được xã hội coi là hành động chính đáng và nếu có bị tù thì cũng chỉ trong một thời gian rất ngắn có tính cách tượng trưng mà thôi.

      Tất cả các tục lệ kể trên hiện vẫn còn tồn tại trong các xứ Ả Rập Hồi Giáo. Tuy nhiên, những tục lệ đó không xuất phát từ đạo Hồi vì trong kinh Koran cũng như những văn bản luật pháp của đạo Hồi đều không có điều khoản nào qui định về các tục lệ đó. Ngày nay, nhiều nước Hồi Giáo đã ban hành các biện pháp hủy bỏ hoặc hạn chế các tục lệ xét ra có hại và lỗi thời.

      GIAI ĐOẠN I (570 – 622)

      Như chúng ta đã biết, phần đông người Ả Rập sinh sống chủ yếu bằng nghề du mục. Từ thế kỷ 4, một số bộ lạc Ả Rập bỏ nghề du mục để chuyển sang nghề buôn bán. Nhưng việc chuyên chở hàng hóa băng qua sa mạc muốn được an toàn cần phải có người bảo vệ. Một số bộ lạc Bedouin rất giỏi về quân sự chuyển qua nghề làm trung gian và chuyên chở hàng hóa. Họ lập thành những đoàn bộ hành (caravans) chở hàng hóa từ miền Nam bán đảo Ả Rập qua thành phố Petra – thành phố gồm có những căn nhà được đục sâu trong vách đá ở miền nam Jordan – đến thành phố Zenobia thuộc xứ Syria. Vào thời gian này, thành phố Zenobia được tôn xưng là Hoàng Hậu của Phương Đông (Queen of the East).

      Do việc buôn bán càng ngày càng phát triển, thành phố Mecca ở phía nam bán đảo Ả Rập dần dần trở thành một trung tâm thương mại lớn nhất trong vùng. Ngoài lý do thương mại, Mecca còn là một địa điểm hành hương của tất cả mọi người theo đạo cổ truyền Ả Rập. Hàng năm, người Ả Rập từ khắp nơi đổ về Mecca để viếng đền thờ Kaaba mà họ tin rằng đền thờ này đã được xây cất từ thời ông Adam tổ tiên loài người và sau đó được xây cất lại bởi ông Abraham và con trai là Ismael. Số người hành hương Mecca mỗi ngày mỗi đông đã khiến cho Mecca trở thành một thánh địa thiêng liêng bất khả xâm phạm. Tâm lý chung của mọi người là phải tự ý thức dẹp bỏ mọi sự xung đột tại thánh địa để sự an toàn và vẻ trang nghiêm của thánh địa được bảo đảm. Đây là một yếu tố tâm lý đã góp phần quan trọng vào việc phát triển thương mại tại thành phố này.

      Sau khi Mecca đã trở thành một đô thị sầm uất thì bộ lạc Quraysh giã từ đời sống du mục để chuyển hẳn sang nghề thương mại vào cuối thế kỷ 5. Tại Mecca có truyền thuyết kể rằng: Thủ lãnh bộ lạc  Quraysh đã đến Syria mua về 3 pho tượng của 3 nữ thần Al-Lat, Al-Uzza và Manat đem về đặt tại đền thờ Kaaba. Từ đó, bộ lạc Quraysh làm ăn phát đạt, trở thành giàu có và nắm quyền kiểm soát toàn thành phố Mecca.

      Một thương gia rất nổi tiếng thuộc bộ lạc Quraysh là Hassim Manaf mỗi năm lãnh đạo hai chuyến lữ hành (caravans) đông tới hàng ngàn người tải hàng từ Mecca đi Yemen hoặc đi Syria. Ông được hoàng đế Byzantine và vua xứ Abyssinia tiếp kiến.

      Con trai ông là Muttalib cũng là một thương gia giàu có ở Mecca. Muttalib có 10 người con trai và 6 con gái. Người con trai út tên là Abdallah rất nổi tiếng là một thanh niên cao lớn đẹp trai. Abdallah chính là cha của Muhammad. Công cuộc buôn bán của Abdallah thiếu may mắn nên gia sản khánh kiệt. Abdallah đau buồn sinh bệnh và chết hai tháng trước khi Muhammad ra đời. Muhammad chỉ được thừa hưởng cái dáng vóc to lớn đẹp trai của cha nhưng không được hưởng chút gia tài nào của cha để lại cả.

      Sau khi sanh Muhammad, bà Anima quá nghèo không nuôi nổi con thơ nên đành phải bế bé Muhammad đến nhờ ông nội là Muttalib nuôi dùm. Ông già Muttalib mời một thầy pháp xuất hồn (a kahin) đến nhà coi bói cho Muhammad. Thầy pháp cho biết sau này đứa bé sẽ cai trị cả thế giới. Ông già Muttalib quá mừng nên vội vàng bế đứa cháu mới sinh đến đền thờ Kaaba để tạ ơn Thượng Đế.

      Hơn hai năm sau, khi cơn đói kém đã qua đi, bà Anima trở lại nhà ông già Muttalib đón bé Muhammad về nuôi tại nhà riêng của bà tại Mecca. Khi Muhammad lên 6 tuổi thì mẹ chết. Một lần nữa Muhammad được đưa trở lại nhà ông nội Muttalib. Muhammad được đưa đến nhà ông chú là Abu Talib, thủ lãnh đoàn thương buôn của dòng họ Hassim.

      Abu Talib được nhiều người ở Mecca tôn trọng về tư cách và khả năng thương mại, mặc dầu gia sản của dòng họ Hassim lúc này đã suy kiệt.

      Khi Muhammad lên 12 tuổi, ông Abu Talib quyết định cho Muhammad được đi theo các chuyến lữ hành tải hàng từ Mecca đi Syria. Kể từ đó cho đến năm 25 tuổi, Muhammad luôn luôn theo sát ông chú trên mọi nẻo đường buôn bán băng qua sa mạc Syro-Arabia. Suốt 13 năm ròng, Muhammad được học đủ mọi môn về quân sự: từ cưỡi ngựa, đấu kiếm, bắn cung, đô vật cho đến các mưu lược chiến thuật  và các phương cách bày binh bố trận chống lại các bọn cướp dọc đường. Từ bẩm sinh, Muhammad đã vốn có một thân hình cao lớn khỏe mạnh, sau 13 năm tập luyện trong thực tế sa mạc, Muhammad trở thành một võ sĩ hay một tướng quân.

      Vào năm 595, Muhammad muốn cưới Fakhita, 25 tuổi, con gái của ông chú Abu Talib. Nhưng ông chú Abu Talib quyết định gả Fakhita cho một người giàu có thuộc dòng họ Makhzum. Để đền bù cho Muhammad, ông Abu Talib giới thiệu Muhammad cho bà Khadija là một phụ nữ sang trọng giàu có nhất nhì tại Mecca. Lúc đó bà Khadija khoảng 40 tuổi, đã có hai đời chồng và 7 người con. Bà thuộc đoàn thương mại của dòng họ Asad đang lúc gặp thời. Bà rất cần có một người dũng cảm và có khả năng chỉ huy quân sự để tổ chức những chuyến buôn từ Mecca vượt qua sa mạc xa xôi đến Syria. Bà Khadija đề nghị với Muhammad việc hôn nhân và Muhammad đồng ý.

      Mặc dầu bà Khadija lớn hơn Muhammad 15 tuổi nhưng Muhammad vẫn say mê bà. Theo sử sách của Hồi Giáo ghi chép thì bà Khaidija lúc đó tuy lớn tuổi nhưng vẫn trẻ đẹp và có dáng vẻ rất sang trọng. Cuộc hôn nhân giữa bà Khadija và Muhammad kéo dài 24 năm, tức cho đến khi bà Khadija qua đời vào năm bà 64 tuổi.

      Cuộc đời của Muhammad và lịch sử thời sơ khai của đạo Hồi đã mang nhiều dấu ấn về tài đức của bà Khadija. Trong cách cư xử với bà Khaidija, Muhammad luôn coi bà như một người mẹ hoặc một người cố vấn hơn là một người vợ bình thường. Trong suốt 24 năm chung sống, Muhammad đã gặp biết bao sự chống phá của mọi kẻ thù và nhiều chuyện rắc rối đau buồn, Muhammad thường bày tỏ tâm sự với bà Khadija và luôn luôn được bà tận tình giúp đỡ nên Muhammad đã vượt qua tất cả. Sau khi bà Khadija qua đời, Muhammad vẫn thường ca ngợi và bày tỏ lòng biết ơn bà Khadija cho đến khi ông trút hơi thở cuối cùng.

      Bà Khadija sinh cho Muhammad 7 người con, gồm 3 trai 4 gái. Nhưng 5 người con đầu đều chết trẻ, chỉ còn lại 2 người con gái. Cô gái út tên là Fatimah, về sau trở thành một nhân vật rất nổi tiếng trong thế giới Hồi Giáo. Vào thế kỷ 10, những người Ả Rập tại Ai Cập tự xưng là con cháu của Fatimah đã lập nên một triều đại hiển hách gọi là Triều Đại Fatimids. Triều đại này cai trị toàn vùng Bắc Phi, Trung Đông và Thổ Nhĩ Kỳ trong 315 năm (935-1250).

      Ông chú Abu Talif là người đã nuôi dạy Muhammad từ nhỏ đến lớn, lúc về già bị sa cơ thất thế. Bà Khadija và Muhammad đến xin đứa con út của ông chú là bé Ali (lúc đó mới 5 tuổi) đem về nuôi. Muhammad hết lòng thương yêu Ali vì Ali mồ côi mẹ và một phần khác vì ông rất biết ơn ông chú Abu. Về sau, Muhammad đã gả con gái út của ông là Fatimah cho Ali. Hai mươi bốn năm sau khi Muhammad qua đời, Ali trở thành vị vua Hồi Giáo thứ tư (The Fourth Calif). Hiện nay, có một số người Chàm theo đạo Hồi ở Việt Nam tôn thờ Ali và tôn xưng Ali là con của Thượng Đế (Son of God).

      Ngoài việc nhận nuôi Ali, vợ chồng Muhammad còn nuôi một bé trai nô lệ là Zayd. Khi Zayd lớn lên, cha mẹ Zayd đem tiền đến chuộc nhưng Zayd xin ở lại. Muhammad trả tự do cho Zayd và từ đó Zayd trở thành con nuôi. Ali và Zayd sống chung với nhau như anh em ruột dưới sự chăm sóc của Muhammad. Sau này cả hai thành đôi bạn khắng khít và đều có quyền lực trong cộng đồng Hồi Giáo sơ khai.

      Vào năm 605, lúc đó Muhammad 35 tuổi, bộ lạc  Quraysh quyết định xây lại đền thờ Kaaba. Đây là một công việc trọng đại và tốn kém nên cần phải có sự đóng góp của nhiều người mới thực hiện được. Khi hội họp thảo luận với nhau, các tập đoàn thương mại (clans) đưa ra nhiều ý kiến trái ngược. Sau năm ngày tranh cãi, các tập đoàn không đạt được một sự thỏa thuận nào. Cuối cùng, các tập đoàn giao ước với nhau rằng: Nếu có một người đàn ông nào đó đến đền thờ vào lúc này thì chúng ta sẽ hỏi ý kiến của người đàn ông ấy và ý kiến của người ấy sẽ là ý kiến quyết định.

      Thật bất ngờ vì người đàn ông bước chân vào đền thờ lúc đó chính là Muhammad. Muhammad vừa mới lãnh đạo một đoàn lữ hành lớn từ Syria trở về Mecca. Theo thông lệ, sau mỗi một chuyến lữ hành thành công, Muhammad đều đến đền thờ Kaaba để tạ ơn Thượng Đế. Đại diện của các tập đoàn thương mại Mecca đến hỏi ý kiến Muhammad. Ông dõng dạc trả lời: “Tất cả chúng ta hãy tìm mọi cách di chuyển Tảng Đá Đen (The Black Stone) đến giữa đền thờ rồi cùng nhau đoàn kết xây lại nơi thờ phượng Thiên Chúa Allah. Chúng ta sẽ biến nơi này thành một trung tâm của thế giới!”

      (Tảng Đá Đen là một thiên thạch đã có sẵn ở bán đảo Ả Rập từ rất lâu đời, không ai có thể xác định được niên đại của nó. Người Ả Rập từ ngàn xưa đã tỏ lòng tôn kính tảng đá này và họ coi nó như một biểu tượng của Đấng Tối Cao. Họ xây đền thờ hình khối phủ lên tảng đá đen và gọi đền thờ đó là Kaaba. Tiếng Ả Rập Kaaba có nghĩa là “nhà hình khối” (Cubic Building). Đền thờ Kaaba và tục lệ hành hương đã có từ nhiều ngàn năm trước Công Nguyên).

      Sứ giả của Thiên Chúa  (Messenger of God)

      Vào năm 610, lúc đó Muhammad vừa tròn 40 tuổi, ông thường cầu nguyện, bố thí và thích tìm đến nơi vắng vẻ một mình để suy tưởng về Thiên Chúa. Vào đêm thứ Bảy mùa chay Ramadan, Muhammad một mình leo lên đỉnh núi Hira ở ngoại ô Mecca và tìm đến một cái hang. Bỗng nhiên, một thiên thần hiện ra với ông và ra lệnh “Hãy thuật lại” (Recite!)

      Vào thời đó, ở Ả Rập có nhiều người làm nghề thầy pháp (soothsayers). Họ thường nhảy múa lên đồng để xuất hồn xuống âm phủ gặp hồn ma người chết. Sau đó thầy pháp “thuật lại” những điều người chết muốn nói với thân nhân còn sống. Vì thế các thầy pháp được gọi là “người thuật lại” (Reciter/ kahin). Khi thiên thần ra lệnh cho Muhammad thuật lại, ông liền từ chối và trả lời ngay rằng: “Tôi không phải là một thầy pháp!” (I’m not a reciter!)

      Ngay lúc đó, thiên thần ôm choàng lấy Muhammad một cách thân mật và nói nhỏ nhẹ bên tai ông những lời mặc khải đầu tiên:

      “Hãy thuật lại nhân danh Chúa

      Là đấng đã tạo ra loài người từ một giọt máu

      Hãy thuật lại: Thiên Chúa hào phóng vô cùng

      Ngài dùng ngòi bút để dạy dỗ loài người

      Về những gì loài người chưa biết”.

       

      (Recite in the name of thy God

      Who createth man from a clot of blood

      Recite: Thy Lord is the Most Bountiful

      He who taught by the pen

      taught man what he knew not – Koran 96:1) 

      Muhammad sợ hãi chạy ra khỏi hang và leo lên đỉnh núi với ý định gieo mình xuống vực để tự tử – Nhưng vừa mới chạy được nửa đường thì nghe có tiếng nói từ trên trời xuống: “Hỡi Muhammad, con là Sứ giả của Thiên Chúa. Ta là thiên thần Gabriel đây!”

      Muhammad đứng trân trân nhìn vị thiên thần và không thể bước tới bước lui. Muhammad quay mặt đi hướng khác, nhưng dù quay hướng nào cũng vẫn nhìn thấy thiên thần ở trước mặt. Muhammad kể rằng: vị thiên thần là một người đàn ông và không đẹp như tranh vẽ của Ki Tô Giáo. Thiên thần tự xưng là “Thần linh của Chân lý” (The Spirit of Truth). Nhiệm vụ của ngài là một phương tiện truyền thông của Thiên Chúa xử dụng để truyền mọi điều của Chúa cho loài người được biết.

      Muhammad nghe thiên thần Gabriel giảng giải những điều như vậy liền cảm thấy yên lòng nên bỏ ý định tự tử và chạy về nhà thuật lại cho bà Khadija biết. Khi vừa trông thấy bà Khadija, Muhammad vội quì xuống rồi bò tới bằng hai tay và hai đầu gối. Muhammad nhào vào lòng bà Khadija như một đứa bé nhào vào lòng mẹ. Muhammad nói: “Hãy che chở tôi, hãy che chở tôi”. Bà Khadija ôm lấy Muhammad trong vòng tay và nói những lời âu yếm dịu dàng nhằm trấn an, vì lúc đó bà nghĩ rằng Muhammad có thể đã bị ma ám (Jinni-possessed). Vào thời đó, người Ả Rập không biết đến các chứng bệnh tâm thần. Mỗi khi gặp trường hợp có người mắc bệnh điên loạn hay khủng hoảng tinh thần, người ta thường gán cho là bị ma ám! Bà Khadija tin tưởng nơi Thượng Đế nên đã an ủi Muhammad: “Anh là người tốt đối với mọi người và anh hay giúp đỡ những người nghèo khó. Nhất định Thượng Đế không bao giờ làm điều gì xấu cho anh đâu, cưng ạ!”

      Liền sau đó bà Khadija dẫn Muhammad đến nhà người anh họ cao niên của bà là Waraqua. Ông này là một tín đồ Ki Tô Giáo rất thông thạo Thánh Kinh Tân Ước bằng tiếng Hy Lạp. Khi thấy bà Khadija và Muhammad đến, Waraqua không tỏ vẻ ngạc nhiên. Ông vui vẻ đón chào: “Thật là một điều thánh thiện! Thiên Chúa đã ban cho Muhammad một bộ luật lớn như ngài đã ban cho Thánh Mai-sen xưa kia. Ôi! Muhammad là tiên tri của các dân tộc Ả Rập.” (Holy! Holy! There has come to him the greatest MANUS who came to Moses aforetime and lo, he is the prophet of the Arab peoples – Muhammad, a biography of the prophet by Karen Amstrong. Pages 84, 85).

      Waraqua đã dùng tiếng Hy Lạp “MANUS”, có nghĩa là Sách Luật, có ý ám chỉ Muhammad là môt tiên tri sẽ mang đến cho các dân tộc Ả Rập một cuốn sách luật vĩ đại như Maisen đã mang đến cho dân tộc Do Thái cuốn sách Kinh “TORAH”, theo tiếng Hebrew cũng có nghĩa là Sách Luật. Muhammad đã tiếp thu ý kiến này. Về sau, Muhammad đã đưa vào kinh Koran rất nhiều điều luật về hình sự, dân sự và cả về các mặt xã hội chính trị, kinh tế nữa.

      Waraqua giải thích cho Muhammad: “Sự mặc khải của Thiên Chúa cho loài người qua các trung gian là các vị tiên tri (prophets) có tính cách liên tục từ xưa đến nay: khởi đầu từ tổ tiên loài người là Adam, sau đó đến Noah, Abraham, Moses, Isaiah, Gioan Baotixita và Jesus”.

      Muhammad chấp nhận quan điểm củaWaraqua nên sau này Muhammad khẳng định đạo Hồi không phải là đạo mới mà chỉ là “Đạo Thiên Chúa Canh Cải” mà thôi (Islam is a Reformed Religion of God).Waraqua cảnh báo cho Muhammad biết trước về những mối nguy hiểm sẽ xảy đến cho người được Chúa chọn làm tiên tri: “Anh sẽ là tiên tri của các dân tộc Ả Rập. Tôi già rồi nhưng tôi sẽ ráng sống cho đến khi người ta ném anh ra ngoài xã hội.” Muhammad nghe nói vậy tỏ ra rất bối rối sợ hãi. Waraqua bèn mượn lời của Chúa Jesus trong Thánh Kinh để giải thích cho Muhammad: “Không có tiên tri nào được trọng vọng ở quê hương mình!” (A prophet is always without honor in his own country!).

      Waraqua tỏ ra là một người học thức sáng suốt và rất am tường tình hình của xứ Ả Rập lúc đó, Ông đã đưa ra những lời khuyên Muhammad rất xác đáng:

      1. Rao giảng những điều mới được mặc khải là một sứ mạng hết sức nguy hiểm nên cần phải có thời gian chuẩn bị mọi việc kỹ càng.
      2. Trong thời gian đó, đế quốc Ki Tô Giáo Byzantine đang dòm ngó bán đảo Ả Rập, Waraqua khuyên Muhammad cần tránh tỏ ra thân Ki Tô Giáo hoặc Byzantine để khỏi bị quần chúng gán cho tội thông đồng với địch.
      3. Waraqua biết Muhammad chủ trương độc thần tuyệt đối nhưng ông khuyên Muhammad đừng vội triệt phá các tượng thần – Lý do vì dân Ả Rập dù có thờ ba nữ thần là những con gái của Thiên Chúa Allah thì họ cũng vẫn là những tín đồ của đạo Abraham (Abrahamic Religion). Đạo Abraham chính là đạo Do Thái trước thời Moses (Pre-Mosaic Judaism) và cũng là đạo cổ truyền của dân Ả Rập. Muhammad nghe lời khuyên của Waraqua nên đã hoàn toàn im hơi lặng tiếng trong hai năm và sau đó thực hiện đúng những điều Waraqua đã dặn.

      Năm 612, tâm lý chung của dân Mecca là chỉ lo làm giàu bằng mọi cách, bất chấp mọi giá trị đạo đức. Các tập đoàn buôn bán coi nhau như thù địch nên xã hội Mecca lâm vào tình trạng chia rẽ cùng cực. Tâm lý quần chúng Ả Rập lúc đó khao khát đi tìm một giải pháp tôn giáo mới (a new religious solution) đáp ứng nhu cầu chung của dân tộc Ả Rập.

      Muhammad cũng như đại đa số dân Ả Rập không thể chấp nhận quan niệm Thiên Chúa Ba Ngôi của đạo Ki Tô vì nó mang nặng tính chất thần thoại Hy Lạp. Người Ả Rập đã cảm nhận từ rất lâu đời tinh thần tôn giáo Abrahamic, tức tinh thần của đạo Do Thái Nguyên Thủy (4000 TCN – 1250 TCN), cho nên Muhammad tìm về gốc đạo Do Thái như tìm về với cội nguồn tinh thần của cả dân tộc. Chính vì quan niệm này mà trong đạo hồi Abraham được coi là một tín đồ Hồi Giáo đầu tiên (The First Muslim) là vị tổ phụ lập đạo và cùng là tổ phụ của dân tộc Ả Rập.

      Muhammad không bao giờ tự coi mình là người lập đạo, không bao giờ tự xưng mình là giáo chủ hoặc là Đấng Cứu Thế. Ông không công nhận mình có một sứ mạng nào đối với cả thế giới (no universal mission) cũng không có một nhiệm vụ chính trị nào. Ông chỉ nhấn mạnh một điều rằng: Ông là tiên tri cuối cùng của Thiên Chúa. Nói cách khác, sau Muhammad sẽ không có một tiên tri nào cả. Điều này rất quan trọng đối với Hồi Giáo: Sau khi Muhammad qua đời, tất cả những người kế vị (Caliphs) đều chỉ là những người kế vị với tư cách lãnh đạo Cộng đồng (Leaders of Community) chứ không ai có thể kế vị với tư cách tiên tri (prophet). Điều này ngụ ý: không ai có tư cách sửa đổi giáo lý đạo Hồi hoặc sửa đổi những điều đã ghi trong kinh Koran.

      Muhammad là một người bản tính giản dị, rất ghét lối sống xa hoa phù phiếm. Ông thường mặc loại quần áo may bằng vải thô. Khi kiếm được tiền, ông thường chia sẻ rộng rãi với những người nghèo. Ông có khuynh hướng sống khổ hạnh. Ông không kết án người giàu một cách quá khích như Jesus “Kẻ giàu vào thiên đàng khó hơn lạc đà chui qua lỗ kim”. Nói như vậy có nghĩa là mọi kẻ giàu đều phải xuống hỏa ngục. Muhammad không tin như vậy, ông nói: “Người nghèo vào thiên đàng trước người giàu”. Ông tin rằng Chúa nhân lành nên không bao giờ phạt một người nào đời đời trong hỏa ngục. Thậm chí như quỉ Satan, Muhammad tin rằng Satan sẽ được Chúa tha tội trong ngày Phán Xét Cuối Cùng. Vào thời Muhammad, hai phần ba phụ nữ trong xã hội là nô lệ. Muhammad muốn đem đến cho họ một niềm hy vọng trong tôn giáo. Vì thế đa số những tín đồ Hồi Giáo đầu tiên là những người nô lệ, phụ nữ và những người khốn cùng trong xã hội.

      Muhammad là người khiêm tốn nên ông cũng xác định Kinh Thánh Koran có một nhiệm vụ cũng rất khiêm tốn: “Koran chỉ làm nhiệm vụ của một kẻ nhắc lại những điều mà mọi người đã biết” (The Quran claimed to be a reminder of things that every body knew already – Koran 80: 11).

      Tất cả những nghi lễ lớn của đạo Hồi hiện nay như hành hương Mecca, sự tôn kính thánh tích Tảng Đá Đen ở đền thờ Kaaba, tục lệ bố thí cho người nghèo, ăn chay trong tháng Ramadan, giết súc vật làm lễ hy sinh (animal sacrifice)… đều xuất phát từ tôn giáo cổ truyền của các bộ lạc Ả Rập nhiều ngàn năm trước khi Muhammad ra đời.

      Có thể nói mọi người Ả Rập đều đã sẵn có niềm tin vào Thiên Chúa, Muhammad không phải tốn công thuyết phục đồng bào của mình về điểm này, chỉ cần làm sao thuyết phục họ tin rằng Muhammad là tiên tri cuối cùng của Thiên Chúa.

      Công việc trọng tâm trong sự thuyết phục đó tưởng đơn giản mà thật khó khăn. Sau hai năm viết sách Koran và thuyết phục mọi người, Muhammad chỉ chinh phục được mấy người trong gia đình: vợ, bốn con gái và hai con nuôi. Ông chú Abu Talib không chịu theo. Tuy nhiên, một người xa lạ là Abu Bakr chẳng những nhiệt tình theo đạo Hồi mà còn hết lòng bênh vực che chở cho Muhammad. Abu Bakr là một thương gia rất giàu và có uy quyền đối với các tập đoàn thương mại ở Mecca. Nhờ uy tín của ông, nhiều thanh niên và những người có thế lực tại Mecca đã theo đạo Hồi.

      Cuộc Tỵ Nạn tại Ethiopia

      Người Ả Rập tin Adong – Evà là tổ tiên loài người và tin có một Thiên Chúa mà họ gọi là Allah, nhưng không biết từ bao giờ họ lại tin rằng Thiên Chúa Allah có 3 cô con gái tên là Al-Lat, Al-Uzza và Manat. Tại đền thờ Kaaba ở Mecca, người Ả Rập tôn thờ Thiên Chúa là chính yếu. Thiên Chúa vô hình vô tượng nhưng ba nữ thần con của Thiên Chúa thì có tượng thờ tại đền này. Ngoài ra, người dân Mecca còn làm thêm 360 tượng thần cai quản 360 ngày trong một năm Âm Lịch.

      Năm 616, Muhammad giảng đạo tại đền thờ Kaaba và thuyết phục mọi người hãy phá bỏ các tượng thần, nhất là 3 tượng nữ thần con của Thiên Chúa.

      Muhammad thuyết giảng rằng: đạo thật của Abraham là chỉ tôn thờ một Thiên Chúa mà thôi. Thiên Chúa không đẻ con nên không có thần nào là con trai hay con gái của Thiên Chúa cả!

      Trước đây 6 năm, Waraqua đã cảnh báo Muhammad về sự nguy hiểm khi khuyên người ta phá bỏ các tượng thần. Nay Muhammad phải đối diện với sự nguy hiểm trong thực tại: Muhammad mất hết sự ủng hộ của mọi người. Các tập đoàn thương mại ở Mecca công khai tuyên bố Muhammad là kẻ thù của quần chúng. Mọi người kết tội Muhammad đã nhục mạ những vị thần thiêng liêng của họ. Nhiều người cuồng tín mang theo vũ khí đi lùng bắt Muhammad. Lúc đó, Muhammad vội chạy trốn để tránh mặt. Bọn người cuồng tín kéo đến nhà ông chú của Muhammad là Abu Talib để hành hung ông mặc dù lúc đó ông đã rất già. Cuối cùng bọn cuồng tín bắt hết những người nô lệ theo đạo Hồi trói vào cọc rồi thiêu sống.

      Muhammad biết tình hình rất căng thẳng và không thể hòa giải nên nội trong đêm hôm đó Muhammad cùng 53 người thân nhân và tín đồ bí mật lẻn ra khỏi thành phố Mecca đi tỵ nạn tại xứ Abyssinia (tức Ethiopia ngày nay). Muhammad và mọi người đi theo được vua Negus tiếp kiến và bảo vệ – Muhammad biết vua Negus và triều đình Abyssinia theo Ki Tô Giáo nên ông bảo Zayd chọn lựa các đoạn trong kinh Koran nói về Chúa Jesus và bà Maria đọc to lên cả triều đình cùng nghe. Sau khi nghe những câu thơ của kinh Koran ca ngợi Chúa Jesus và đức bà Maria, nhà vua khen ngợi Muhammad và nghĩ rằng đạo Hồi cũng là đạo Ki Tô!

      Những Vần Thơ của Quỉ Sa Tăng.-

      Trong thế giới Tây Phương thù nghịch với đạo Hồi, người ta đã phổ biến nhiều chuyện bề ngoài có tính cách lịch sử nhưng bên trong nhằm chế nhạo hoặc bôi bẩn giáo chủ Muhammad. Một trong những chuyện đó rút ra từ sách Sử Ký của Ibn Sad và Tabari. Chuyện đó kể rằng: Sau khi giảng đạo tại Kaaba nhằm thuyết phục mọi người phá bỏ các tượng thần, Muhammad không ngờ bị mọi người phản đối kịch liệt. Chẳng những thế, Muhammad còn bị những người cuồng tín phẫn nộ đi lùng bắt để giết chết. Muhammad bị dồn vào thế kẹt hết sức nguy hiểm. Để tạm thời đối phó với tình thế, Muhammad viết trong chương 53 của kinh Koran hai câu thơ nhượng bộ những người đa thần giáo như sau:

      “Các người không coi trọng ba vị nữ thần

                  Al-Lat, Al-Uzza và Manat sao?

                  Những vị đó đều là những thiên thần

                  mà lời cầu nguyện của họ đều được

                  Thiên Chúa chấp nhận”.           

      (Have you considered Al-Lat, Al-Uzza and Manta?

      They are the exalted angels whose intercession is approved – Koran, sura 53: 19-20).

      Sau đó, Muhammad sai người đưa kinh Koran cho những người ở Mecca đọc, đặc biệt lưu ý họ về hai câu thơ nói về ba vị nữ thần. Những người đa thần giáo ở Mecca cho rằng Muhammad đã chịu thừa nhận các nữ thần của họ và họ bằng lòng bỏ qua cho Muhammad về tội xúc phạm thần thánh trước đây.

      Mấy năm sau, Muhammad kéo 10.000 quân trở lại chiếm Mecca. Đợi đến lúc hoàn toàn làm chủ tình hình ở Mecca, Muhammad mới dám hủy bỏ hai câu thơ 19-20 trong Sura 53. Muhammad viết trong chương 5 những câu thơ phủ nhận các nữ thần, gọi các nữ thần là sản phẩm tưởng tượng không đáng tôn thờ.

      Chương 5 trong kinh Koran còn nói rõ rằng: Các câu thơ trước đây chấp nhận sự tôn thờ các nữ thần Ả Rập là những câu thơ đã được gợi ý bởi quỉ Sa Tăng. (The verses inspired by Satan)

      Năm 1988, nhà văn Anh gốc Ấn Salman Rushdie đã mượn ý của câu chuyện trên để viết cuốn tiểu thuyết “The Satanic Verses”. Rushdie sưu tầm các chuyện huyền thoại của Tây Phương từ xưa đến nay nói về Muhammad nhằm mục đích tạo ấn tượng nơi độc giả về Muhammad như một gã lừa đảo với những tham vọng chính trị.

      Chủ đích của cuốn tiểu thuyết cũng nhằm chứng tỏ rằng cuốn kinh Koran của đạo Hồi không phân biệt được điều lành và điều dữ. Koran chẳng bao giờ là sách ghi lời của Chúa mà hoàn toàn được sáng tạo bởi cá nhân Muhammad mà thôi.

      Chuyến Du Hành Ban Đêm (The Night Journey).-

      Trong một buổi tối năm 620, Muhammad đến thăm cô em họ là Umm Hani (chị ruột của Ali) cư ngụ ở gần đền thờ Kaaba. Sau đó, Muhammad vào đền thờ để ngủ qua đêm. Trong lúc đang ngủ thì ông được thiên thần Gabriel đánh thức dậy rồi đặt ông ngồi trên lưng một con ngựa thần. Tiếng Ả Rập gọi con ngựa thần là Buruq. Đó là một con ngựa có đầu người và có hai cánh giống như cánh chim rất lớn. Ngựa thần chở ông từ Mecca đến Jerusalem rồi đáp trên núi Đền Thờ (Temple Mount). Tại đây, Muhammad được đón chào bởi các tiên tri Do Thái: Abraham, Mai-sen và Jesus. Thiên thần Gabriel dẫn Muhammad đến một cái thang và cả hai cùng leo lên. Tại tầng trời thứ nhất, Muhammad gặp tổ tiên loài người  là Adam. Tầng thứ hai do Jesus và Gioan Baotixita cai quản. Tầng thứ ba có Joseph. Tầng thứ tư do Enoch chủ trì. Tầng thứ năm do Aaron, tầng sáu do Mai-sen. Tầng thứ bảy do Abraham. Vòm trời trên cùng là nơi ở của Thiên Chúa Allah.

      Sau khi được yết kiến Thiên Chúa và được ngài căn dặn phải cầu nguyện mỗi ngày 50 lần, Muhammad cùng với thiên thần Gabriel xin cáo từ và xuống thang. Khi xuống đến tầng thứ sáu thì Mai-sen dặn Muhammad rằng: “Không nên bắt tín đồ cầu nguyện nhiều quá. Thiên Chúa đòi phải cầu nguyện mỗi ngày 50 lần nhưng chỉ cần cầu nguyện mỗi ngày 5 lần cũng đủ rồi!”

      Sau giấc mơ đi Jerusalem năm 620, Muhammad viết kinh Koran qui định mỗi ngày các tín đồ Hồi Giáo phải cầu nguyện 5 lần. Mỗi lần cầu nguyện phải quay mặt về hướng Jerusalem. Năm 627, Muhammad ra lệnh hành quyết tập thể 700 người Do Thái tại Medina vì những người này có âm mưu chống lại ông. Sau vụ này ông thù ghét người Do Thái và đạo Do Thái nên ông viết lại kinh Koran qui định cho các tín đồ khi cầu nguyện phải quay mặt về hướng Mecca chứ không phải là Jerusalem như trước.

      Ngôi vị của Mai-sen (giáo chủ đạo Do Thái) trước đây cao hơn ngôi vị của Jesus (Giáo Chủ đạo Ki Tô). Nay Muhammad đảo ngược lại: nâng Jesus lên cao hơn Mai-sen vì lúc này Muhammad chưa có điều gì thù oán với Ki Tô Giáo. Ngày nay, các tín đồ Hồi Giáo kính trọng nhất là Tiên tri Muhammad, kế đến là tiên tri Jesus và tiên tri Mai-sen. Đối với họ, tất cả các tiên tri này đều là những người trần mắt thịt và đều là đầy tớ của Thượng Đế (Servants of God).

      GIAI ĐOẠN II (622-632) 

      Năm 619, người vợ yêu quí của Muhammad là bà Khadija qua đời, hưởng thọ 64 tuổi. Qua năm sau, Muhammad lấy cô Sawdah, 30 tuổi, là em dâu của ông Suhayl tù trưởng bộ lạc Amir. Cô Sawdah hiện là một góa phụ. Ba năm về trước, Sawdah đã cùng chồng đi tỵ nạn tại Ethiopia cùng với gia đình của Muhammad vì vợ chồng cô đều theo đạo Hồi. Khi trở lại Mecca được ít lâu thì chồng cô bị bệnh và qua đời. Muhammad cưới cô Sawdah với ý định liên kết quân sự với tù trưởng Amir, nhưng sau này tù trưởng Amir đã chống lại Muhammad và bị bắt làm tù binh tại Medina.

      Cũng trong năm 620, người bạn giàu có và hết sức thân cận của Muhammad là Abu Bakr đã gã cô con gái út của ông là Aisha mới lên 6 tuổi cho Muhammad. Sự hứa gã chỉ có tính cách hình thức vì Aisha vẫn sống với cha mẹ. Sau này, khi Aisha lên 9 tuổi mới sống với Muhammad như vợ chồng.

      Trong thời gian này, tại thành phố Yathrib đã có khoảng 100 gia đình theo đạo Hồi. Yathrib là một ốc đảo khá lớn, cách Mecca khoảng 200 dặm về phia bắc. Đây là nơi cư ngụ lâu đời của sáu bộ lạc Ả Rập và ba bộ lạc Do Thái.

      Vào tháng 9 năm 622, một phái đoàn 75 người từ Yathrib đến Mecca mời Muhammad cùng gia đình và các tín đồ Hồi Giáo di cư về Yathrib để thành lập cộng đồng Hồi Giáo đầu tiên. Sau một thời gian ngắn chuẩn bị, Muhammad và khoảng 100 gia đình Hồi Giáo bí mật trốn Mecca để di cư đến Yathrib. Trong số này có gia đình của Abu Bakr.

      Sau mấy ngày băng qua những bãi cát sa mạc, đoàn người di cư của Muhammad đã tới ốc đảo Yathrib ngày 24 tháng 9 năm 622. Đây là ngày trọng đại trong lịch sử Hồi Giáo vì đó chính là ngày mở đầu cho cả một kỷ nguyên Hồi Giáo. Lịch Hồi Giáo bắt đầu từ ngày này chứ không phải từ ngày sinh của Muhammad. Năm 622 Dương Lịch trở thành năm thứ nhất của Âm Lịch Hồi Giáo. Danh từ Ả Rập gọi cuộc di cư lịch sử này là HIJRA. Thành phố Yathrib nguyên là tên gọi theo tiếng Hebrew của người Do Thái, nay được đổi tên thành Medina, chữ tắt của Madinat Al Rasul có nghĩa là Thành Phố của Thiên Sứ (City of Messenger). Medina từ một ốc đảo heo hút giữa sa mạc đã trở thành thánh địa thứ hai sau Mecca. Hiện nay mỗi năm cũng có khoảng từ 2 đến 3 triệu tín đồ trên khắp thế giới đến đây hành hương.

      Lúc ban đầu mới đến Medina, Muhammad và đoàn người Hồi Giáo chỉ là những kẻ tỵ nạn rách nát chạy trốn sự ngược đãi của những người đa thần giáo ở Mecca. Nhưng dần dần, trong vòng 5 năm kế tiếp, cả 6 bộ lạc Ả Rập ở Medina đều theo đạo Hồi và tất cả thành phố Medina được đặt dưới quyền lãnh đạo duy nhất của Muhammad.

      Cả 6 bộ lạc ở Medina cùng ký với nhau một hiệp ước gọi là “Umma”, có nghĩa là hiệp ước thành lập một đơn vị xã hội căn bản. Nói đúng hơn, đó là một cộng đồng Hồi Giáo liên kết với nhau trên nền tảng tôn giáo chứ không đặt trên nền tảng huyết thống hay chủng tộc. Kinh Koran nêu lên điều căn bản cho cộng đồng Hồi Giáo như sau: “Quan hệ giữa các tín đồ Hồi Giáo với nhau là quan hệ anh em ruột thịt” (The believers are bond of brothers – Koran 49:10).

      Một điều đặc biệt là tại Medina, Muhammad ra lệnh cho các tín đồ phải nghe lời ông như nghe lời Chúa. Tất cả các tín đồ già trẻ lớn bé đều tuân lệnh của ông răm rắp. Ông viết trong kinh Koran: “Ai vâng lời tiên tri là vâng lời chính Thiên Chúa” (He that obeys the Apostle, obeys Allah himself – Koran 4:80).

      Không ai có thể phủ nhận được tài thuyết phục của Muhammad. Ông đã dùng tôn giáo để thống nhất các bộ lạc Ả Rập trước đây luôn luôn thù nghịch nhau. Tôn giáo đã tập họp họ trong một cộng đồng Hồi Giáo (umma). Medina đã trở thành khuôn mẫu đầu tiên về umma mà các người kế vị sau này đã bắt chước để bành trướng đạo Hồi ra khắp thế giới.

      Muhammad trú ngụ tại Medina trong 10 năm. Nhiều sử gia chuyên về Hồi Giáo đã chia thời gian này làm hai giai đoạn:

      – Giai đoạn đầu từ năm 622 đến 627

      – Giai đoạn sau từ năm 627 đến 632 là năm Muhammad qua đời.

      GIAI ĐOẠN ĐẦU TẠI MEDINA (622-627)

      Trong thời kỳ 5 năm đầu trú ngụ tại Medina, Muhammad và cộng đồng Hồi Giáo đầu tiên đã thực hiện rất nhiều cuộc đột kích (raids) nhằm mục đích tấn công các đoàn lữ hành đi qua sa mạc để cướp lạc đà, ngựa, vũ khí, hàng hóa và các loại thực phẩm. Cộng đồng Hồi Giáo tại Medina khó có thể sống còn nếu không tổ chức các vụ cướp nói trên. Ngoài ra, Muhammad biết trước những người đa thần giáo ở Mecca sớm muộn cũng sẽ tấn công cộng đồng Hồi Giáo tại Medina. Do đó ông phải lo tăng cường binh lực bằng cách cướp lạc đà, ngựa, vũ khí và tích lũy lương thực.

      Muhammad luôn luôn kêu gọi cộng đồng Hồi Giáo tại Medina phải sẵn sàng chiến đấu và tích cực tham gia thánh chiến (Jihad). Ý niệm “thánh chiến” trong Hồi Giáo không chỉ có nghĩa là sẵn sàng tử đạo mà còn có nghĩa là một “bổn phận thiêng liêng” của mọi tín đồ phải tham gia chiến đấu trên mọi mặt trận, từ tinh thần đến vật chất, từ kinh tế đến chính trị. Do đó, các chương trong kinh Koran được viết tại Medina đều mang đậm nét về chính trị, xã hội, kinh tế và cả về quân sự nữa.

      Muhammad hoàn toàn khác với Jesus vì ông không bao giờ chấp nhận “đưa má cho người ta tát”. Ông đưa ra một học thuyết được mệnh danh là “Thần Học Chiến Tranh Chính Đáng” (Theology of the just war). “Khi anh gặp những kẻ không tin đạo gây chiến thì đừng bao giờ quay lưng về phía chúng” (When you meet those who disbelieve marching for war, then turn not your back to them – Koran 8:15). Khi viết những câu thơ này, Muhammad đang phải đối phó với nguy cơ chiến tranh với Mecca. Muốn chiến thắng Mecca thì trước hết phải tiến hành những cuộc đột kích những chuyến hàng nhỏ của Mecca để làm suy yếu dần nguồn nhân lực tài lực của họ. Sau đó tiến đến những cuộc tấn công lớn để triệt tiêu độc quyền buôn bán của Mecca với Syria. Khi độc quyền buôn bán đó không còn nữa thì nền kinh tế của Mecca sẽ bị suy sụp. Cuối cùng sẽ có ngày toàn thành phố Mecca bị Muhammad chinh phục.

      1. Những cuộc “thánh chiến” đẫm máu.-

      Trong mấy tháng đầu năm 623, Muhammad cho người đi thám thính để theo dõi tình hình của các đoàn lữ hành Mecca đi Syria. Quân thám thính về báo cáo có một đoàn lữ hành sắp đi ngang qua Medina và có rất ít người bảo vệ. Muhammad sai Hamzah dẫn vài chục kỵ binh đi phục kích. Sau khi giết hết mọi người trong đoàn lữ hành, đoàn kỵ binh của Hamzah dẫn hết lạc đà, ngựa và toàn bộ chiến lợi phẩm về Medina.

      Từ đầu năm 623 đến tháng 9 năm đó, Muhammad đã thực hiện nhiều cuộc đột kích như vậy. Các thương gia ở Mecca đối phó bằng cách ký hiệp ước với các bộ lạc ở dọc theo bờ biển Hồng Hải.

      Con đường dọc theo bờ biển Hồng Hải là trục lộ chính của các đoàn lữ hành từ Mecca đi Syria. Đồng thời, các thương gia Mecca tuyển nhiều kỵ binh ưu tú thuộc bộ lạc Bedouin để tăng cường bảo vệ các đoàn lữ hành.

      Tháng 9 năm 623, sau khi đã tăng cường an ninh mọi mặt, Mecca ủy nhiệm cho đại thương gia Umayah Juma hướng dẫn một đoàn lữ hành rất lớn gồm có 2.500 lạc đà chở hàng từ Mecca đi Syria. Muhammad hay tin này đã quyết định huy động toàn lực và đích thân chỉ huy cuộc tấn công để cướp số hàng lớn lao này.

      Cuộc tấn công thành công mỹ mãn. Mecca bắt đầu cảm thấy phải nể sợ Muhammad. Sau vụ này, Mecca đành tạm ngưng các chuyến buôn phải qua Medina. Thay vì đi về phương bắc, họ đi về phương nam để buôn bán với xứ Yemen.

      Mặc dầu Mecca đã bỏ tuyến đường phía bắc và phải đổi về tuyến đường phía nam buôn bán với Yemen, nhưng Muhammad vẫn không buông tha. Tháng giêng năm 624, Muhammad sai Abdallah mang quân đi vòng xuống phía nam của bán đảo Ả Rập, cách Medina tới hơn 400 dặm, để chận đánh đoàn lữ hành của Mecca đang trên đường tới Yemen. Đoàn quân của Abdallah cướp trọn số hàng đem về Medina. Vụ này gây phẫn nộ cho mọi người Ả Rập vì theo truyền thống của đạo cổ truyền thì tháng giêng là tháng thiêng liêng, mọi việc cướp của giết người phải được kiêng cữ. Dân Mecca gọi Muhammad là kẻ vô thần.

      Sự phẫn nộ của dân Mecca chưa kịp nguôi thì xảy ra vụ kế tiếp. Đó là vào tháng ăn chay Ramadan, tức tháng 3 năm 624, Muhammad nghe tin một đại thương gia của Mecca là Abu Sufyan sẽ dẫn một đoàn lữ hành gồm trên 1000 người chở nhiều hàng quí giá của ngoại quốc đem về Mecca.

      Muhammad huy động 500 quân, gồm có 350 tín đồ Hồi Giáo tình nguyện và 150 người thuộc các bộ lạc ở Medina. Muhammad dẫn quân đến bố trí tại các đồi cát ở Badr, một địa danh ở sát bờ Hồng Hải và cách Medina khoảng 100 cây số về phía tây. Badr là nơi các bộ lạc Ả Rập thường tổ chức hội chợ để mua bán trao đổi các đặc sản của mình.

      Abu Sufyan là một thủ lãnh thông minh và giàu kinh nghiệm. Trước khi đoàn lữ hành tiến đến một đia điểm nguy hiểm hay khả nghi, Sufyan luôn luôn cho một toán tiền thám phi ngựa đến đó trước để quan sát hoặc thăm dò dân địa phương. Toán tiền thám về báo cáo cho biết quân phục kích của Muhammad hiện có mặt tại Badr. Abu Sufyan ra lệnh cho đoàn lữ hành tạt ngang sang tay mặt để đi xuống vùng bãi biển bằng phẳng của Hồng Hải. Đồng thời ông thuê một người cưỡi ngựa rất giỏi tên là Damdam phi ngựa như bay về Mecca cấp báo và yêu cầu mang quân ra để hộ tống đoàn lữ hành trên đường về Mecca.

      Sau khi được Damdam báo tin về việc Muhammad bố trí quân phục kích tại Badr, toàn dân Mecca hết sức tức giận vì chuyến hàng do Sufyan điều khiển là chuyến hàng đắt giá nhất của giới thương gia Mecca. Hơn nữa, cuộc đột kích diễn ra lúc này đang trong tháng Ramadan chứng tỏ Muhammad bất chấp tục lệ cổ truyền thiêng liêng của người Ả Rập. Càng ngày Muhammad càng tỏ ra là một người nguy hiểm!

      Do sự tức giận đó nên số người tự nguyện tham gia đoàn quân tiếp cứu Sufyan ghi tên rất đông và gồm cả những người thân thiết của Muhammad nữa. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, giới lãnh đạo Mecca đã qui tụ được trên một ngàn người, trong đó có chú ruột của Muhammad là Abbas, hai em họ chí thân đã từng sống chung với Muhammad dưới một mái nhà từ nhỏ (đó là hai con trai của Abu Talif, chú ruột kiêm cha nuôi của Muhammad từ lúc 8 tuổi), tù trưởng bộ lạc Amir là bạn thân kiêm anh rễ của vợ Muhammad và có cả Hakim là cháu ruột của bà Khadija (vợ đầu của Muhammad).

      Ngay chiều hôm đó, đoàn quân tiếp cứu rời Mecca tiến về Badr. Họ phải đi qua Badr đến địa điểm trên bờ biển Hồng Hải để gặp đoàn lữ hành của Sufyan. Quân số của cả hai đoàn gộp lại lên tới trên 2000 người. Ỷ vào quân số đông gấp bốn lần quân số của Muhammad nên họ yên tâm lên đường trở về Mecca.

      Toán thám báo của Muhammad báo cáo cho biết đoàn quân đông đảo của Sufyan sắp đi ngang qua Badr. Muhammad kêu gọi mọi người phải quyết tâm chiến đấu dù phải đối đầu với bạn bè hoặc người ruột thịt. Muhammad bố trí người tại các giếng nước ở Badr để ngăn chặn mọi nguồn nước uống. Số quân còn lại núp sau các đụn cát. Muhammad căn dặn mọi người phải tiêu diệt những người lãnh đạo của Mecca ngay từ đầu để gây rối loạn hàng ngũ của địch. Muhammad không sợ quân số đông của Mecca vì ông biết rõ những người chỉ huy của họ chỉ quen chỉ huy những nhóm nhỏ mà thôi. Khi có quân số đông, họ sẽ không biết điều động và phối hợp ra sao.

      Quân số của Muhammad tuy ít nhưng Muhammad có tài chỉ huy, quân lính dưới quyền ông tuyệt đối vâng lời và có kỷ luật.

      Trưa hôm sau, đoàn lữ hành của Abu Sufyan và đoàn tiếp cứu của Mecca từ từ tiến vào Badr. Các cung thủ của Muhammad núp sau các đụn cát đột nhiên xuất hiện và ưu tiên nhắm bắn các cấp chỉ huy của đoàn lữ hành. Chỉ trong khoảnh khắc, 50 người chỉ huy đoàn lữ hành bỏ xác tại trận. Đoàn người lữ hành và tiếp cứu hoảng hồn bỏ chạy tán loạn. Quân của Muhammad từ mọi hướng xông ra chém giết nhiều vô kể. Một số tàn quân của Mecca sống sót chạy thoát. Muhammad chiếm được hàng trăm lạc đà và ngựa, tịch thu nhiều vũ khí, quân trang và hàng hóa ngoại nhập đủ loại. Muhammad cho giải 70 tù binh về Medina. Điều đặc biệt là những tù binh này hầu hết đều là bạn bè hoặc họ hàng của những người Hồi Giáo trước đây ở Mecca di cư về Medina.

      Trong số đó có Suhayl, tù trưởng bộ lạc Amir là bạn thân của Muhammad trước đây và là anh chồng cũ của Sawdah, vợ của Muhammad hiện nay. Quan trọng hơn cả là tù binh Abbas, chú ruột của Muhammad. Sau đó là Aquil và Nawfal là hai con trai của Abu Talif, chú ruột kiêm cha nuôi của Muhammad. Còn một người nữa cũng quan trọng không kém là Abu Alas, con rễ của Muhammad. Abu Alas lấy cô con gái áp út của Muhammad tên là Zaynab. Vì Abu không chịu theo đạo Hồi và không di cư đến Medina nên Zaynab phải ở lại Mecca với chồng con.

      Khi đoàn quân của Muhammad chiến thắng trở về, tất cả mọi người Hồi Giáo ở Medina chạy ra đón mừng với niềm hân hoan chưa từng có. Bởi vì cứ mỗi lần đoàn quân chiến thắng trở về thì tất cả những đồ cướp được (loots) đều phân phát cho tất cả mọi người. Lần này họ hy vọng sẽ nhận được nhiều hàng hóa ngoại nhập quí hiếm mà bình thường họ không thể có được.

      Trong lúc đó, ba bộ lạc Do Thái tại Medina tỏ ra hết sức lo ngại vì những người Ả Rập Hồi Giáo quá hiếu chiến hiếu sát sẽ trở thành một mối nguy hiểm khó lường trong tương lai.

      Tại Mecca cũng như tại khắp nơi trên bán đảo Ả Rập, tin tức về trận đánh ở Badr đã làm mọi người phải bàng hoàng vì sự tổn thất lớn lao về người và của mà Muhammad đã gây ra cho Mecca. Không riêng gì Mecca mà cả những bộ lạc Bedouin và Do Thái cũng phải e dè và chuẩn bị đối phó với Muhammad.

      Muhammad và các tín đồ của ông không quan tâm đến những vấn đề nói trên. Trái lại, mọi người đều cảm thấy rất phấn khởi sau một chiến thắng lớn hơn dự tưởng. Muhammad càng thêm tin tưởng rằng Chúa đã phù hộ một cách đặc biệt cho đoàn quân Hồi Giáo của ông. Chính Thiên Chúa đã tiêu diệt người Mecca chứ không phải ông diệt họ. Diệt địch nhân danh Chúa là đặc quyền của người Hồi Giáo. Ông đã diễn đạt những ý trên trong kinh Koran như sau:

      “Anh đã không giết người như anh nghĩ mà là Chúa đã giết họ. Khi anh quật ngã họ nhưng không phải do anh mà là Chúa đã quật họ. Đó là đặc quyền mà Chúa đã ban cho những tín đồ của Ngài”. (You did not slay the ennemies, but God slew them. When thou threw it was not thyself that threw, but God threw. And that He might confer on the believers a fair benefits – Koran 8:17).

      Mặc dầu thực hiện những hành vi cướp của giết người nhưng Muhammad và các tín đồ vẫn tin tưởng mình có chính nghĩa và luôn luôn được Thiên Chúa phù hộ, cho nên dù cho quân số ít cũng vẫn có thể đánh thắng những kẻ địch đông hơn gấp bội.

      Kinh Koran viết về điều này như sau:

      ” Nếu quân số của anh chỉ có hai mươi, nhưng đều là những người kiên cường, các anh sẽ chiến thắng hai trăm địch. Nếu quân số của anh có một ngàn, các anh sẽ chiến thắng hai ngàn địch. Đó là sự cho phép của Chúa”.

      (If there be twenty of you – patient men.

      You will overcome two hundred.

      If there be one thousand of you.

      You will overcome two thousand,

      by the leave of God. God is with the patient – Koran 8:67)

      Cái ý nghĩ cho rằng Thiên Chúa đứng cùng phe với mình trong các cuộc chiến tranh là một đặc tính trong truyền thống của các đạo thờ Thiên Chúa, bao gồm cả đạo Do Thái, đạo Ki Tô và đạo Hồi.

      -Thánh kinh Cựu Ước Exodus của đạo Do Thái kể chuyện Mai-sen dẫn dân Do Thái đến Biển Đỏ thì được Chúa hóa phép cho nước biển rẽ sang hai bên tạo thành con đường cho dân Do Thái đi qua đáy biển an toàn. Liền sau đó thì đoàn quân của vua Pharaon Ai Cập ập tới để rượt bắt những người Do Thái. Khi đoàn quân Ai Cập đi xuống con đường dưới đáy biển thì Chúa hóa phép cho nước biển từ hai bên ập lại khiến cho đoàn quân Ai Cập bị chết đuối hết. Mai-sen và dân Do Thái quì xuống cảm ơn Chúa và xưng tụng Chúa là “Thiên Chúa của các đạo binh”

      – Người Công Giáo cũng bắt chước người Do Thái tin rằng Thiên Chúa luôn luôn đứng về phe với họ để giúp họ chống lại mọi kẻ thù. Tại các buổi lễ ở nhà thờ, người Công Giáo luôn luôn đọc kinh trong đó có câu: “Thánh, Thánh, Thánh! Chúa là Thiên Chúa các đạo binh, vinh danh Chúa trên các tầng trời!”

      Đối với Muhammad, mặc dầu ông dạy các tín đồ tin tưởng vào sự phù hộ đặc biệt của Chúa, nhưng ông là người rất thực tế nên làm việc gì cũng phải tính toán cẩn thận. Sau trận đánh ở Badr, Muhammad biết Mecca sẽ nhất định trả thù bằng cách kéo quân đến tấn công Medina. Do đó, việc trước tiên ông phải làm là đối xử tốt với các tù binh.

      Trước hết, ông đích thân đi điểm mặt 70 tù binh. Ông nhận ra hai người trước đây đã nhục mạ ông khi ông giảng đạo tại Mecca. Ông ra lệnh cho quân lính mang hai người đó ra chợ chém đầu. Sáu mươi tám người còn lại được cởi trói nhưng đều bị nhốt trong nhà giam. Tất cả đều được cho ăn uống tử tế.

      Trong đêm hôm đó, Muhammad không ngủ được vì cảm thấy thương ông chú ruột là Abbas và hai người em họ đã sống với ông trên mười năm tại nhà ông chú Abu Talib, đó là Aquil và Nawfal. Sáng hôm sau Muhammad ra lệnh phóng thích ba người này. Mấy hôm sau, nhiều thân nhân của các tù binh mang tiền hoặc vàng bạc đến Medina để xin chuộc mạng cho các tù binh.

      Sau khi nghe tin chồng là Abu-Alas bị bắt làm tù binh ở Medina, Zaynab (con gái của Muhammad) vội gom tiền bạc và nữ trang rồi đưa cho anh của chồng là Amir đến Medina nộp tiền chuộc (ransom) cho Muhammad để lãnh Abu-Alas về. Trong số nữ trang Amir giao nộp có cái vòng đeo tay của bà Khadija thường đeo lúc còn sống, trước khi chết bà đã trao lại cho Zaynab. Vừa nhìn thấy chiếc vòng đó, Muhammad nhận ra ngay đó là chiếc vòng đầy kỷ niệm của người vợ yêu quí nhất đời của ông. Ông xúc động bật khóc rồi trả lại hết mọi thứ cho Amir. Ông cho gọi Abu Alas đến để yêu cầu người con rễ phải đưa Zaynab và đứa cháu ngoại đến Medina sống với ông. Trong lúc này tại Medina chỉ còn lại cô gái út tên Fatimah, 20 tuổi, là người thân duy nhất sống gần ông mà thôi. Sau khi Abu Alas hứa thực hiện lời ông yêu cầu, y liền được thả tự do.

      Chỉ vài tuần lễ sau trận đánh Badr, tại Medina diễn ra hai đám cưới linh đình:

      – Đám cưới thứ nhất của Fatimah và Ali. Ali là con trai út của ông chú Abu Talib. Khi ông Talib qua đời thì Ali mới 5 tuổi, Muhammad đem về nuôi từ đó đến nay. Ali và Fatimah đã sống với nhau chung một nhà từ nhỏ đến lớn nên rất hiểu nhau.

      – Đám cưới thứ hai là của chính Muhammad và cô Hafsah, 18 tuổi, con gái của bạn Muhammad là Umar.

      Năm 625, Muhammad 55 tuổi, cô vợ bé bỏng mà Muhammad yêu quí nhất là Aisha – con gái út của Abu Bakr – năm nay vừa tròn 11 tuổi. Mặc dầu còn nhỏ xíu nhưng Aisha cũng biết ghen với các bà vợ khác của Muhammad. Tuy nhiên, trong đám cưới này, Aisha không ghen với Hafsah mặc dầu Hafsah rất đẹp. Cô bé Aisha tuy còn nhỏ nhưng rất thông minh. Cô bé hiểu rằng: Cha cô là Abu Bakr cũng như cha của Hafsah là Umar đều đã gã con gái để kết thân với Muhammad. Từ mấy năm nay, Abu Bakr và Umar đã là hai cộng sự viên quan trọng nhất của Muhammad. Vì cùng hiểu như vậy nên Aisha và Hafsah trở thành đôi bạn chí cốt cho đến chết. Quả nhiên về sau Abu Bakr và Umar đều trở thành những người kế vị Muhammad và đều là những người then chốt nắm vận mạng của Hồi Giáo trong thời sơ khai.

      Sau những tổn thất nặng nề tại Badr, giới lãnh đạo Mecca quyết tâm tăng cường binh lực để tiêu diệt căn cứ địa Medina của Muhammad. Một mặt Mecca thu phục các bộ lạc Bedouin thiện chiến làm đồng minh. Mặt khác Mecca ngấm ngầm liên lạc với ba bộ lạc Do Thái ở Medina làm nội ứng.

      Điểm yếu của Mecca là nhiều chiến sĩ tài giỏi đã chẳng may tử trận tại Badr, nay chỉ còn lại một người có khả năng chỉ huy quân sự là Abu Sufyan.

      Abu Sufyan vô cùng căm thù Muhammad vì hai con trai của ông và cha vợ của ông đều bị tử trận ở Badr. Từ tháng 3 năm 625, Sufyan bắt đầu mở chiến dịch phục thù. Trong một đêm, Sufyan dẫn 200 quân đến bố trí bên ngoài thành Medina, sau đó ông một mình đột nhập vào thành liên lạc với bộ lạc Do Thái Bani Nadir. Ông được bộ lạc này cung cấp nhiều tin tức về quân số và hệ thống phòng thủ của Muhammad. Trước khi trời sáng, Sufyan bắt hai người Hồi Giáo đem ra ngoài thành chém đầu rồi nổi lửa đốt đồng lúa trước khi rút lui. Đến khi Muhammad hay tin, đem quân đuổi theo thì đoàn quân của Sufyan đã phi ngựa chạy xa.

      Sau vụ này, Muhammad cho toán tình báo của ông đi điều tra. Kết quả tình báo cho biết bộ lạc Do Thái Bani Nadir đã thông đồng với Abu Sufyan. Bộ lạc này có khoảng một ngàn người chuyên nghề thợ rèn và thợ thủ công. Mấy hôm sau, nhân một vụ xích mích giữa một nhóm người Do Thái với một nhóm người Ả Rập Hồi Giáo, kết quả của vụ ẩu đả là một người Do Thái và một người Ả Rập bị tử thương.

      Muhammad nhân cơ hội này đem quân bao vây khu vực của bộ lạc Bani Nadir. Sau hai tuần lễ bao vây, Muhammad không thấy các bộ lạc Do Thái khác có phản ứng gì và cũng không thấy quân Mecca tới cứu đồng minh của họ. Tù trưởng bộ lạc Do Thái Bani Nadir không hy vọng được tiếp cứu nên phải đầu hàng và xin Muhammad tha mạng. Muhammad ra lệnh toàn thể bộ lạc Bani Nadir phải rời khỏi Medina và chỉ được mang theo các động sản gọn nhẹ. Tất cả nhà cửa ruộng vườn đều bị tịch thu.

      Sau khi bộ lạc Do Thái Bani Nadir bị đuổi ra khỏi Medina thì tại ốc đảo này vẫn còn lại hai bộ lạc Do Thái khác là bộ lạc Aws và bộ lạc Khasraj.

      Ngày 11 tháng 3 năm 625, Mecca quyết định mở cuộc tấn công Medina. Tổng số quân huy động được lên tới 3000 người với 3000 lạc đà và 200 ngựa, tất cả được đặt dưới quyền chỉ huy của Abu Sufyan. Cuộc chuyển quân bằng lạc đà đi rất chậm nên mất mười ngày đoàn quân mới tới gần Medina.

      Muhammad hay tin nên đem một ngàn quân đi nghênh chiến tại Uhud, cách Medina 20 dặm về phía nam. Ngày 23-3-625, quân hai bên đối diện nhau tại Uhud. Điều đặc biệt là đằng sau đoàn quân của Sufyan còn có một đoàn quân phụ nữ gồm toàn những người có chồng, con trai hoặc cha bị tử trận ở Badr. Họ dàn hàng ngang phía sau các đoàn quân vừa đánh trống tambourines vừa ca hát để khích lệ tinh thần của các binh sĩ Mecca. Đoàn phụ nữ này được đặt dưới sự chỉ huy của bà Hind là vợ của Sufyan. Bà Hind thề trước đoàn quân là sẽ mổ bụng ăn gan của Hamzah, một quân sĩ của Muhammad bị nhận diện là người đã giết cha của bà Hind tại trận Badr.

      Trong trận này, Muhammad và quân sĩ chỉ mãi lo đối phó với đoàn quân của Sufyan ở phía trước mặt mà không đề phòng ở phia sau lưng. Bất thần đoàn cung thủ của Sufyan đã núp sẵn ở những đụn cát phía sau tiến lên bắn như mưa vào đoàn quân Hồi Giáo. Sáu mươi lăm quân Hồi chết liền tại chỗ và hàng trăm người khác bị thương, trong đó có Muhammad. Vì Muhammad bị bất tỉnh nên quân Hồi lo rút lui để bảo vệ chủ tướng. Rất may là quân Mecca tuy đông gấp ba lần quân Hồi nhưng đã không truy kích. Quân Hồi phải để xác đồng đội ở lại chiến trường. Đoàn quân Mecca trả thù bằng cách cắt xẻo những xác chết của quân Hồi. Riêng xác của Hamzah bị quân Mecca mổ bụng moi gan để đưa cho vợ của Sufyan là bà Hind. Mụ này cắn một miếng ăn sống để thực hiện đúng với lời thề trước hàng quân trước đó.

      Sau vụ thất trận bi thảm tại Uhud, tinh thần của cả cộng đồng Hồi Giáo (Umma) xuống thấp chưa từng thấy. Nhiều tín đồ trước đây đã nghe Muhammad thuyết giảng là Thiên Chúa đứng về phe của Hồi Giáo: “Hai mươi người đánh thắng hai trăm – Đó là đặc quyền Chúa ban cho các tín đồ của Ngài – Koran 8:17”. Nay giáo chủ bị thương bất tỉnh, quân bị chết nhiều và đoàn quân Hồi chưa kịp đánh đã phải rút chạy. Nhiều tín đồ tỏ ý thất vọng và coi trận Uhud là một dấu hiệu cho thấy Thiên Chúa đã bỏ rơi tiên tri Muhammad.

      Mấy hôm sau, Muhamamad phục hồi sức khỏe, ông viết vào kinh Koran mấy câu thơ nhắc nhở tín đồ: “Các tín đồ không nên coi thất bại ở trận Uhud là dấu hiệu của Thiên Chúa đã ruồng bỏ tiên tri của ngài, hãy coi đó là dịp để xem ai là tín đồ chân chính và ai không là chân chính – Koran 3:13, 3:152”.

      2. Harem của tiên tri tại Medina.-

      Trận đánh Uhud ngày 23 tháng 3 năm 625 đã để lại chiến trường 65 xác người Hồi Giáo và tại Medina 65 người phụ nữ góa chồng. Vài tháng sau lại có thêm 50 người nữa bị quân Mecca phục kích giết chết. Kết quả là tại Medina đã có trên một trăm góa phụ. Đứng trước thảm cảnh này, Muhammad đã viết những câu thơ trong kinh Koran nhằm khuyến khích đàn ông Hồi Giáo lấy thêm vợ:

      “Nếu thấy điều đó là tốt cho anh

      Hãy lấy thêm hai, ba, bốn vợ”.

      (Marry such women as seem good to you

      two, three or four – Koran 4:3)

      “Hãy lấy những người đàn bà không có chồng

      ở trong cộng đồng của các người”.

      (Marry the spouseless among you – Koran 24:33).

      Khi viết những câu thơ có tính cách cổ vũ chế độ đa thê, Muhammad không hề nghĩ đến chuyện thỏa mãn dục tình một cách ích kỷ mà chỉ nghĩ đến một nhiệm vụ xã hội. Trong hoàn cảnh xã hội Ả Rập lúc đó các bà góa khó có thể sống một mình vì những người góa bụa cô đơn thường hay bị các kẻ gian lạm dụng hoặc bắt nạt. Do đó, các góa phụ rất cần phải có người đàn ông giúp đỡ và che chở.

      Kinh Koran đòi hỏi những người đàn ông có nhiều vợ phải dành cho mỗi người vợ một số lượng thời gian bằng nhau và phải đối xử công bình như nhau. Trước biến cố này, Muhammad chỉ có 3 người vợ là Saudah (29 tuổi) Aisha (11 tuổi) và Hafsah (18 tuổi). Để thực hiện điều ông vừa viết trong kinh Koran, Muhammad lấy bà vợ thứ tư là Zaynab Kuzaymah, vợ góa của một chiến sĩ mới tử trận trong tháng giêng năm 624 tại Badr. Vài tháng sau ông cưới bà vợ thứ năm là Salamah 29 tuổi, vợ góa của người em họ. Nàng rất thông minh và khá xinh đẹp, về sau nàng là một cố vấn đắc lực cho Muhammad về nhiều phương diện.

      Đến lần cưới bà vợ thứ sáu, Muhammad gặp phải những điều tai tiếng dị nghị và một số chuyện phiền phức khác. Vào đầu năm 626, Muhammad đến thăm người con nuôi tên là Zayd mà ông đã nuôi từ lúc còn nhỏ ở Mecca. Vợ của Zayd từ trong nhà chạy ra mở cửa để đón khách. Vì thấy Muhammad đến thăm bất ngờ nên nàng vỗ tay reo mừng và tỏ ra rất hân hạnh được đón tiếp Muhammad.

      Vợ của Zayd tên Zaynab Jahsh, 30 tuổi, có một nét đẹp đặc biệt là rất mặn mà duyên dáng. Hôm gặp nàng ra mở cửa đón chào, Muhammad bị choáng váng trước vẻ đẹp của nàng nên đã nói những lời khen ngợi khiến cho nàng cảm động. Sau đó Zaynab nói thẳng với chồng là nàng muốn ly dị để lấy Muhammad nếu Muhammad đồng ý cưới nàng. Zayd rất đau khổ về chuyện này nhưng vì sau đó bị vợ thúc ép nên Zayd đành phải đến gặp Muhammad để hỏi xem Muhammad có muốn lấy Zaynab làm vợ không. Muhammad trả lời đồng ý nên Zayd về làm thủ tục ly dị vợ.

      Mấy bữa sau, một đám cưới linh đình được tổ chức, Zaynab Jahsh từ vị trí con dâu (nuôi) trở thành vợ của người cha nuôi chồng cũ.

      Trong tiệc cưới có nhiều người đàn ông đến tham dự đã ở nán lại quá lâu để chiêm ngưỡng sắc đẹp mặn mà của cô dâu đặc biệt này. Muhammad muốn đuổi họ về nhưng lại không muốn làm mất lòng họ. Vì không thấy Muhammad nói gì nên những người đàn ông đó đã đến sát gần các bà vợ của Muhammad và nói chuyện một cách xàm sỡ. Muhammad thấy cần phải có biện pháp ngăn cách những người đàn ông đầy dục vọng này tách rời khỏi các bà vợ trẻ đẹp của ông. Muhammad đã viết những câu thơ để diễn đạt ý này như sau:

      “Các tín đồ đừng nên vào nhà của Tiên Tri

      để dùng bữa mà không để ý đến giờ giấc thích hợp

      Trừ khi các người được Tiên Tri cho phép

      Nếu các người được Tiên Tri mời thì cứ vào ăn

      Nhưng khi ăn xong thì giải tán

      Đừng nói chuyện quá nhiều làm phiền lòng Tiên Tri

      Vì ngài rất ngượng phải đuổi các người đi

      Nếu các người muốn hỏi những người vợ của Tiên Tri về bất cứ chuyện gì. Hãy nói chuyện với họ đằng sau tấm mạng che mặt. Điều này làm cho trái tim của các người và của các nàng được thanh khiết”.

      (Believers! do not enter the house of the Prophet

      For a meal without waiting for the proper time

      Unless you are given leave.

      But if you are invited, enter.

      When you have eaten, disperse.

      Do not engage in familiar talk

      For this would annoy the Prophet

      And he would be ashamed to bid you go

      If you ask his wives for anything, speak to them from behind a curtain (hijab) .This is more chaste for your hearts and their hearts – Koran 33: 53)

      Mấy câu thơ trên đây rất nổi tiếng trong thế giới Hồi Giáo. Người ta gọi là “Những câu thơ của bức màn che” (The Verses of the curtain). Bức màn che đó chính là tấm mạng che mặt (veil) của phụ nữ Hồi Giáo, tiếng Ả Rập gọi là HIJAB. Thông thường thì tấm vải này có màu đen và đủ rộng để che kín đầu, tóc, phủ đến vai và che kín cả mặt, chỉ chừa khoảng trống nhỏ ở đôi mắt để người phụ nữ có thể nhìn đường. Cũng từ khi có mấy câu thơ đó xuất hiện, các bà vợ của Muhammad đều phải che mạng mỗi khi bước chân ra khỏi nhà hoặc khi tiếp chuyện với mọi người ngoài gia đình. Đó cũng là khuôn vàng thước ngọc về việc đeo mạng của phụ nữ trong thế giới Hồi Giáo sau này!

      Đầu năm 627, Aisha 13 tuổi, nàng bắt đầu đến tuổi dậy thì nên bỗng nhiên trổ mã lớn vượt lên và đẹp hẳn ra. Muhammad yêu thích Aisha hơn tất cả các cô vợ khác nên đi đâu ông cũng mang theo Aisha. Thậm chí có một hôm Muhammad mang quân đi phục kích để chận đánh bộ lạc Do Thái Bani trên bờ biển Hồng Hải, ông cũng dẫn Aisha đi theo bên mình.

      Sau trận tấn công vũ bão của Muhammad, bộ lạc Do Thái Bani bỏ chạy tán loạn, Lịch sử không nói tới số thương vong của họ là bao nhiêu, chỉ nói họ đã để lại chiến trường 2000 lạc đà, 5000 con cừu và 200 phụ nữ. Muhammad tuyển chọn một cô đẹp nhất tên là Juwayriah để lấy làm vợ. Số phụ nữ còn lại sẽ được trả tự do sau khi thân nhân của họ mang tiền đến chuộc.

      Trên đường từ mặt trận trở về Medina, tại một nơi nghỉ chân, Aisha lẻn xuống khỏi kiệu trên lưng lạc đà để đi vệ sinh. Lúc trở lại chỗ cũ thì đoàn quân đã đi khỏi. Trong lúc nàng đang lo sợ thì có một thanh niên tên Safwan là lính hậu vệ của đoàn quân từ phía sau đi tới, Aisha vội lật cái mạng của nàng ra để Safwan nhận diện. Safwan không còn cách nào khác hơn là bế nàng lên lưng lạc đà của chàng để cả hai người cùng cưỡi về Medina.

      Khi thấy Safwan và Aisha cùng ngồi trên lưng lạc đà về Medina một lúc sau khi cả đoàn quân đã trở về hết, mọi người ở Medina bắt đầu bàn tán về đức hạnh của Aisha. Muhammad tức giận nổi ghen và không muốn nhìn mặt Aisha nữa. Aisha quá đau khổ vì bị hiểu lầm nên sinh bệnh. Trong lúc đang đau khổ mà không thể giải bày thì Aisha nghe thấy Ali nói với Muhammad rằng: “Trên đời này thiếu gì đàn bà, cha có thể lấy người vợ khác tốt hơn”. Câu nói của Ali như nhát dao đâm thấu tim của Aisha và sau này Aisha sẽ không tha thứ cho Ali.

      (Ba mươi năm sau, khi Ali lên làm vua (Caliph) của Hồi Giáo thì Aisha lãnh đạo một cuộc cách mạng chống Ali).

      Mấy hôm sau, Muhammad suy nghĩ lại và chợt hiểu ra rằng Aisha chỉ là một cô bé ngây thơ vô tội nên ông đã làm hòa với Aisha. Cha mẹ Aisha thấy vậy rất vui mừng nên khuyên Aisha cám ơn Muhammad. Aisha thẳng thắn trả lời: “Con không cám ơn ai hết, kể cả tiên tri Muhammad. Con chỉ cám ơn một người duy nhất là Thiên Chúa”. Muhammad nghe vậy rất cảm phục Aisha vì nàng tuy nhỏ nhưng đã tỏ ra là có bản lãnh vững vàng, có đức tin mạnh và không hề sợ hãi. Từ đó cho đến lúc chết, Muhammad không yêu ai hơn yêu Aisha.

      Vì tình cảm thiên vị của Muhammad dành cho Aisha quá lộ liễu nên các cô vợ khác của Muhammad ghen tuông và khiếu nại, viện cớ kinh Koran dạy người chồng phải đối xử công bằng với các bà vợ. Từ đó ông phải theo thứ tự ngủ đêm tại mỗi phòng với một cô. Mỗi khi đi đâu, ông phải rút thăm để biết ai là người sẽ cùng đi với ông trong cuộc hành trình. Tuy nhiên, mỗi khi Muhammad đến đền thờ để giảng đạo thì chỉ có một người duy nhất luôn luôn ở bên cạnh ông là Aisha. Ông nói với mọi người rằng Aisha cũng có ơn mặc khải của Thiên Chúa giống như ông. Một hôm cô con gái cưng của Muhammad là Fatimah khuyên cha không nên quá gần gũi với Aisha. Muhammad hỏi lại: “Chẳng lẽ con không yêu người cha yêu quí nhất hay sao?”.

      Sau khi Muhammad qua đời, Aisha trở thành người quan trọng nhất về giáo lý và luật pháp của Hồi Giáo.

      3. Vụ thảm sát 700 người Do Thái tại Medina.-

      Tháng 3 năm 627, Mecca huy động 10.000 quân với dự tính phá tan căn cứ địa Medina của Muhammad. Trong khi đó, Muhammad cũng đã chuẩn bị đối phó bằng cách mua chuộc một số quân thiện chiến của bộ lạc Bedouin. Nhờ đó quân số chiến đấu của Muhammad đã lên tới 3000 người. Điểm lợi nhất cho Muhammad là căn cứ địa Medina được thiên nhiên bảo vệ ba phía bằng những sườn núi nham thạch rất dốc. Chỉ còn một phía duy nhất trống trải là phia bắc của ốc đảo mà thôi.

      Vì biết trước việc Mecca sắp tấn công nên Muhammad ra lệnh cho các tín đồ gặt lúa và tích trữ lương thực. Sau đó ông huy động toàn dân ở Medina đào một cái hào thật sâu suốt dọc phía bắc của ốc đảo. Số đất đào được đắp thành lũy cao. Đây là một phương cách phòng thủ chưa từng thấy ở Ả Rập. Sáng kiến này do một tín đồ Hồi Giáo gốc Ba Tư là Salman đưa ra. Hào sâu sẽ chận đứng bước tiến của các đoàn kỵ binh của địch vì ngựa không thể nhảy qua để tiến vào ốc đảo. Lũy cao sẽ là cái lá chắn hữu hiệu các loạt tên của địch, trái lại, quân Hồi Giáo có núp sau lũy để bất thần bắn ra những loạt tên để diệt địch.

      Ngày 31-3 năm 627, mười ngàn quân Mecca kéo tới Medina. Khi đến trước cửa ngõ phia bắc của ốc đảo, các đoàn quân của Mecca đều phải khựng lại vì ngựa cũng như người đều không thể vượt qua hào sâu lũy cao. Trong khi đó, quân của Muhammad núp trên lũy cao bắn tên xuống như mưa gây nhiều thương vong cho quân Mecca. Quân Mecca không còn cách nào khác hơn là rút ra xa khỏi tầm tên bắn để đóng quân bao vây. Sau 3 tuần lễ bao vây, quân Mecca bị cạn hết lương thực và nước uống. Người, ngựa và lạc đà đều bị đói và khát nên không thể ở lại lâu hơn, cuối cùng cả đoàn quân 10.000 người đành phải âm thầm rút lui.

      Trước khi có vụ tấn công của Mecca, tin tình báo đã cho Muhammad biết về những âm mưu của bộ lạc Do Thái Aws làm nội ứng cho Mecca để chống lại Hồi Giáo. Sau khi đoàn quân của Mecca đã rút hết, Muhammad quyết định phải tiêu diệt bộ lạc Aws để trừ hậu hoạn. Ông ra lệnh cho các tín đồ đào một cái hố lớn tại chợ Medina. Sau đó ông trực tiếp chỉ huy cuộc bao vây khu vực của bộ lạc Aws để bắt hết mọi người đàn ông của bộ lạc này. Chỉ có một số rất ít người Do Thái được các tín đồ Hồi Giáo xin với Muhammad cho tha mạng, số còn lại khoảng 700 người đàn ông Do Thái bị trói từng người và bị đưa ra cái hố lớn ở giữa chợ Medina để chém đầu. Sau đó, các xác chết được xô xuống hố lấp lại thành một nấm mồ tập thể.

      Trong vụ thảm sát này có một người đàn bà duy nhất bị chém đầu. Đó là người đàn bà Do Thái bị người Hồi Giáo tố cáo là đã lợi dụng lúc quân Mecca bao vây Medina để ném đá vào người Hồi Giáo.

      Về sau, Aisha đã kể chuyện về người đàn bà Do Thái này như sau: “Bà ta đến nói chuyện với tôi trong khi Muhammad đang tàn sát người Do Thái ở chợ Medina. Rồi đột nhiên người ta đến bắt bà ấy. Tôi ngạc nhiên hỏi: “Có chuyện gì xảy ra cho bà vậy?” Bà ta bình tĩnh trả lời: “Người ta đem tôi đi chém đầu”. Tôi liền hỏi: “Về tội gì?”. Bà ta đáp: “Về một việc mà tôi đã làm”. Liền sau đó bà ta bị chặt đầu tại chợ. Aisha kể tiếp: “Tôi sẽ không bao giờ quên được người đàn bà Do Thái can đảm phi thường – Bà ta vẫn cười trong lúc bị lôi đến pháp trường để chém đầu”. Vợ con của 700 người bị chém đầu đều bị trói đem đi bán ở các chợ nô lệ.

      (Muhammad, a biography of the prophet, by Karen Amstrong – Chapter 8, 164-210).

      GIAI ĐOẠN SAU (627-632) TẠI MEDINA

      Sau năm năm đầu chiếm cứ Medina (622-627), Muhammad và cộng đồng Hồi Giáo đã gây ra nhiều cuộc đột kích đẫm máu để tấn công các đoàn thương buôn của Mecca nhằm mục đích cướp ngựa, lạc đà, vũ khí, tiền bạc và đủ loại hàng hóa vừa để sống còn tại ốc đảo Medina vừa để tăng cường lực lượng quân sự. Sau vụ trục xuất bộ lạc Do Thái Bani và vụ tàn sát bộ lạc Do Thái Aws, danh tiếng của Muhammad được loan đi khắp vùng và ai cũng phải nể sợ. Các bộ lạc Bedouin trước đây là đồng minh với Mecca, nay sợ sẽ bị Muhammad trả thù nên tuyên bố không liên kết với Mecca nữa.

      Trong tình hình thuận lợi hiện tại, Muhammad quyết định: Trước hết thống nhất tất cả các bộ lạc Ả Rập thành một quốc gia. Bộ lạc nào tách rời sẽ bị trừng phạt. Sau đó sẽ chiếm thành phố Becca làm thủ đô phát triển đạo Hồi.

      Tuy chưa phải là một quốc vương nhưng Muhammad đã viết thư và sửa soạn những món quà quí giá rồi cử nhiều phái đoàn đến yết kiến các hoàng đế của đế quốc Byzantine và đế quốc Ba Tư, các vua Ai Cập và Ethiopia.

      Sau đó ông gửi thư đến các bộ lạc Ả Rập, không phân biệt họ theo tôn giáo nào. Trong thư ông nhấn mạnh: “Đạo Do Thái là đạo của con cháu Jacob, đạo Hồi là đạo của con cháu Ismael. Kinh Thánh Cựu Ước bằng tiếng Hebrew của Do Thái, Tân Ước bằng tiếng Hy Lạp của Ki Tô Giáo, Kinh Koran bằng tiếng Arabic là Kinh Thánh của người Ả Rập”. Ông không yêu cầu mọi người theo đạo Hồi nhưng yêu cầu tất cả các bộ lạc Ả Rập gia nhập “Cộng Đồng Ả Rập”, tương tự như “umma” ở Medina. Sau thư mời nói trên, nhiều bộ lạc Ả Rập xin gia nhập “umma”, đặc biệt là các bộ lạc Bedouine. Chỉ còn lại 3 bộ lạc không chiu gia nhập là các bộ lạc Asad, Thalabah và Sad. Từ cuối năm 627 đến cuối năm 628, Muhammad mang quân đi tấn công để trừng phạt 3 bộ lạc nói trên.

      Cũng trong thời gian này, Muhammad mở những cuộc tấn công các đoàn thương mại Mecca với chủ đích phá vỡ hoàn toàn thế độc quyền thương mại của thành phố này với các xứ phương Bắc. Để chính thức cạnh tranh với Mecca, Muhammad lập các đoàn lữ hành tải hàng từ Medina đi bán ở Syria và Ba Tư, sau đó mua các hàng quí hiếm của ngoại quốc đem về Medina để biến ốc đảo này trở nên một thành phố sầm uất.

      Trong một vụ phục kích cướp hàng của Mecca, không ngờ chuyến hàng đó là của Abu Alas, con rễ của Muhammad. Trước đây, Abu Alas không chiu theo đạo Hồi nên vẫn ở lại Mecca và không theo vợ con đến Medina. Sau vụ bị cướp hết hàng này, Abu Alas buộc lòng phải đến Medina gặp vợ là Zaynab nhờ can thiệp. Zaynab đến gặp cha để xin lại số hàng cho chồng. Muhammad đồng ý với điều kiện Abu Alas phải về ở hẳn tại Medina đoàn tụ với vợ con. Sau đó Abu Alas được trả toàn bộ số hàng hóa đưa về Mecca bán rồi trở lại Medina theo đạo Hồi để được sống yên ổn với vợ con.

      Đầu năm 628, nhân dịp tháng ba là tháng hành hương đền thờ Kaaba tại Mecca theo tục lệ cổ truyền của các dân tộc Ả Rập. Muhammad báo trước cho Mecca biết ông sẽ hướng dẫn 1000 tín đồ đến hành hương tại đền thờ Kaaba và không mang theo vũ khí, chỉ đem theo 70 con lạc đà để làm lễ hy sinh (animal sacrifice) mà thôi. Mặc dầu tuyên bố không mang theo vũ khí nhưng tất cả mọi tín đồ của Muhammad đều dấu trong áo choàng những đoản kiếm và dao găm đề phòng bất trắc.

      Khi đoàn người của Muhammad đến gần Mecca thì bị viên chức cao cấp của thành phố là Khalid dẫn 200 kỵ binh ra ngăn chặn không cho vào thành phố. Muhammad cảnh cáo Khalid không nên tấn công đoàn người của ông, nếu tấn công sẽ bị đánh trả đích đáng. Khalid đành nhượng bộ và để cho đoàn người của Muhammad tự do đến đền thờ Kaaba.

      Đầu năm 629, một số bộ lạc Do Thái ở những ốc đảo phía Bắc Medina tỏ ra thù ghét Muhammad. Muhammad quyết định mang 600 quân đến bao vây thị trấn ở gần nhất là Khaybar. Thị trấn này được bảo vệ bởi một hệ thống thành lũy và 7 pháo đài. Trước hết, Muhammad để quân bao vây thị trấn này trong một tháng. Sau đó quân Hồi bất thần tấn công và triệt hạ từng pháo đài một. Cuối cùng mọi bộ lạc Do Thái ở đây xin đầu hàng, nộp một nửa các huê lợi chà là ngũ cốc và xin được làm chư hầu của Medina.

      Những bộ lạc Do Thái ở kế cận Khaybar đều xin ký hòa ước thần phục Muhammad. Một tù trưởng Do Thái ở thị trấn Fadak tên là Huyay muốn cầu thân với Muhammad nên đã gả cho Muhammad cô con gái út 17 tuổi rất đẹp tên là Safyah.

      Cũng trong thời gian này, người anh họ của Muhammad qua đời, Muhammad lấy vợ của anh ta tên là Ramlah. Do những cuộc hôn nhân xảy ra dồn dập sau này nên harem của Muhammad đã trở nên khá đông. Các bà vợ của Muhammad chia thành hai phe. Phe trẻ gồm có Aisha 15 tuổi, Hafsah 17 tuổi và Safyah 17 tuổi tạo thành bộ ba (The Trio) tách rời và chống lại các “bà già” của Muhammad!

      Tháng 3 năm 629, Muhammad tổ chức cuộc hành hương đền thờ Kaaba với 2600 người tham dự. Lần này đến Mecca, đoàn người của Muhammad không gặp một sự cản trở nào cả. Nhân dịp này, Muhammad tình cờ gặp lại người chú họ tên là Abbas cùng đi hành hương với cô em gái rất đẹp tên là Maymunah. Muhammad xin cưới người cô họ này và tổ chức đám cưới ngay tại Mecca. Lợi dụng tiệc cưới làm cơ hội giải hòa, Muhammad mời tất cả các kẻ thù của ông tại Mecca đến dự tiệc cưới. Không ngờ người chỉ huy quân sự cao cấp nhất ở Mecca là Khalid nhận lời mời đến dự tiệc cưới của Muhammad. Sau tiệc cưới, Khalid tự nguyện xin theo đạo Hồi. Đây là thành công bất ngờ và hết sức lớn lao của Muhammad.

      Khi phái đoàn 2600 người vào làm lễ tại đền thờ Kaaba, Bilal là người da đen đầu tiên theo đạo Hồi đã leo lên nóc đền thờ Kaaba kêu gọi mọi người cầu nguyện ba lần một ngày. Đến đêm cuối cùng của chương trình hành hương, toàn thể 2600 người lặng lẽ rút êm ra khỏi thành phố mà không ai hay biết. Muhammad cố ý thực hiện điều này để cho dân Mecca biết rằng Cộng Đồng Hồi Giáo là một tập thể gắn bó với nhau bằng đức tin, có tổ chức chu đáo với tinh thần kỷ luật rất cao.

      Khalid đi theo Muhammad về Medina. Trước đây Khalid là vị tướng chỉ huy quân Mecca đối đầu với Muhammad tại các trận Uhud và trận Trench (hào lũy). Muhammad hết sức vui mừng đón nhận Khalid. Từ đó Khalid trở thành một trong những dũng tướng của Muhammad tại Medina.

      Cuối năm 629, Muhammad làm một cuộc mạo hiểm đầy tham vọng là đánh chiếm xứ Syria. Ông sai Khalid, Zayd và Jafar dẫn 3000 quân tinh nhuệ và vũ trang hùng hậu đi thử thời vận. Khi tới biên giới Syria, quân thám báo của Khalid cho biết đế quốc Byzantine có 10.000 quân tại đây. Khalid không dám đối đầu nên đành rút quân về Jordan dừng chân. Đế quốc Byzantine cho rằng quân Hồi đã dám vô cớ kéo đến khiêu khích nên cho quân truy kích đến tận Jordan. Sau một trận đánh không cân sức, quân Hồi bị giết rất nhiều, trong số đó có Zayd (con nuôi của Muhammad) và Jafar. Khalid dẫn đám tàn quân trở lại Medina. Muhammad rất đau buồn vì đã tính sai nước cờ. Trong thời gian đó có một chuyện vui cho riêng Muhammad. Vua Muquaquis của Ai Cập gửi tặng cho Muhammad một cô gái nô lệ gốc Ai Cập rất đẹp tên là Myriam. Cô này theo đạo Ki Tô Chính Thống (Coptic Christian) Muhammad say mê sắc đẹp của Myriam đến nỗi ông bỏ bê tất cả các cô khác. Do vậy mà cơn sóng gió trong harem nổi lên. Ít lâu sau, Myriam mang bầu và sinh ra một đứa bé trai kháu khỉnh. Muhammad đặt tên là Ibrahim (tức Abraham). Ngoài Myriam ra không có một cô nào trong harem sinh con cho Muhammad nên ông càng say mê Myriam hơn nữa.

      Aisha, Hafsa và Safyah tổ chức một cuộc nổi loạn trong harem. Mũi dùi tấn công chĩa vào Myriam. Cuộc chiến tranh giữa những người vợ khiến cho Muhammad chịu không nổi nên ông đành phải ngủ đêm tại sàn nhà của đền thờ. Sau đó ông cất một căn gác nhỏ gần nơi đền thờ để mỗi đêm leo lên đó nằm chèo queo một mình. Ông cảm thấy có nhiều vợ cũng chẳng vui sướng gì và ông muốn xa rời tất cả các bà vợ trẻ đẹp của mình. Tuy nhiên, ông cũng không muốn các bà vợ của ông rơi vào tay kẻ khác sau khi ông qua đời. Do đó, ông viết vào kinh Koran mấy vần thơ để qui định hai điều sau đây:

      1. Hãy gọi các bà vợ của tiên tri là “các bà mẹ của các tín đồ” (Mothers of the faithful).

      2. Sau khi tiên tri qua đời, các bà vợ của Ngài không được lấy chồng khác.

      (The Prophet has a greater claim on the faithful than they have on themselves and his wives are their mothers – Koran 33: 6 / Nor that you should marry his wives after him ever, surely this is grievous in the sight of Allah – Koran 33: 53).

      Nhân dịp mùa chay Ramadan trong tháng giêng năm 630, Muhammad tổ chức một cuộc hành hương vĩ đại tại Mecca với sự tham dự của 10.000 tín đồ có võ trang.

      Muhammad báo trước cho Mecca biết điều đó. Lãnh đạo tối cao của Mecca lúc đó là Abu Sufyan tự xét không đủ sức chống lại Muhammad nên khuyên mọi người không chống cự. Chỉ có ba tù trưởng của ba bộ lạc Ả Rập thù ghét Muhammad quyết tâm chống lại. Khi đoàn quân hành hương của Muhammad đến cổng thành Mecca thì ba tù trưởng Ikrimah, Swafan và Suhayl mang quân ra nghênh chiến. Nhưng chỉ trong khoảnh khắc, đoàn quân Hồi Giáo dưới sự chỉ huy của Khalib đã dẹp tan đoàn quân của các bộ lạc thù địch. Các tù trưởng Ikrimah và Safwan bỏ trốn. Tù trưởng Suhayl đầu hàng. Đoàn quân 10.000 người của Muhammad tràn vào chiếm thành phố Mecca không tốn một giọt máu.

      Muhammad căng lều sát cạnh đền thờ Kaaba để làm chỗ trú ngụ cho ông cùng với hai người vợ. Ngoài ra còn có Fatimah là con gái út của ông và chồng là Ali.

      Sau khi tất cả mọi người đều tắm rửa sạch sẽ, Muhammad cùng với 10.000 chiến sĩ đi vòng quanh đền thờ Kaaba 7 vòng. Bảy vòng này tượng trưng cho 7 tầng của Thiên Đàng. Trong đền thờ có Tảng Đá Đen linh thiêng, cứ đi một vòng thì Muhammad chạm tay vào hòn đá đen một lần. Mỗi lần chạm tay vào hòn đá đen như vậy, Muhammad kêu to lên: “Al-lah Akbar” (Vinh Danh Thiên Chúa). Mười ngàn tín đồ hô theo vang dội như lời reo mừng chào đón chiến thắng cuối cùng của đạo Hồi trên thành phố Mecca.

      Sau khi đi hết 7 vòng quanh đền thờ Kaaba, Muhammad và tùy tùng leo lên nóc đền thờ đập nát 360 tượng thần. Bên trong đền thờ có một số tranh vẽ trên tường cũng bị phá hủy, ngoại trừ những bức tranh vẽ hình Chúa Jesus được giữ lại mà thôi. Những bức hình Chúa Jesus có thể đã được những người Ki Tô Giáo vẽ trong đền thờ dưới thời vương quốc Abyssinia cai trị bán đảo Ả Rập từ 525 đến 570.

      Sau khi chiếm Mecca bằng một phương cách hòa bình, Muhammad ban hành lệnh ân xá cho tất cả mọi người đã chống Hồi Giáo, ngoại trừ 10 người có nợ máu quá nặng, trong số đó có mụ Hind (vợ của Sufyan) đã từng mổ bụng ăn gan Hamzah (một chiến sĩ Hồi Giáo bị tử thương ở Uhud).

      Khi mụ Hind bị bắt đưa đến trình diện Muhammad, mụ đã khôn khéo thưa rằng: “Kính thưa tiên tri, ngài là sứ giả của Thiên Chúa, bây giờ ngài không thể lên án phạt tôi vì tôi đã tuyên xưng đức tin Hồi Giáo”. Muhammad tươi cười trả lời: “Tất nhiên là mụ đã được trả tự do”.

      Muhammad đã tha tội chết cho mụ Hind một phần vì mụ đã nhận theo Hồi, nhưng phần quan trọng hơn là vì chồng của mụ (Abu Sufyan) đã có công lớn trong việc thuyết phục thành phố Mecca không chống cự Muhammad nên ông mới có thể chiếm Mecca một cách dễ dàng như vậy. Muhammad đã thưởng công rất lớn cho kẻ thù cũ là Abu Sufyan bằng cách giao cho y và gia đình nắm giữ các chức vụ quan trọng của thành phố Mecca. Sau này con cháu của Sufyan đã lập nên triều đại Ummayad, đóng đô tại Damacus (Syria) và truyền ngôi qua 14 đời vua.

      Một nhân vật khác bị Muhammad thù ghét và lên án tử hình là Abdallah, anh nuôi của Uthman. Khi biết mình có tên trong sổ đen của Muhammad, Abdallah đã đến nhờ Uthman can thiệp xin tha mạng. Uthman là người thân tín của Muhammad đã dẫn Abdallah đến gặp chủ tướng. Muhammad chẳng những tha mạng mà còn tin dùng Abdallah. Về sau, Abdallah trở thành một nhân vật quan trọng trong Hồi Giáo.

      Sau khi chiếm thành phố Mecca vào tháng giêng năm 630, Muhammad sáp nhập quân của thành phố này với quân của Medina để thành lập một đạo quân Hồi Giáo lên tới 30.000 ngưòi. Tháng 10 năm 630, Muhammad cùng Abu Sufyan dẫn đoàn quân này đến thành phố Tabuk, cách Medina 250 dặm về phía bắc. Muhammad cho quân nghỉ dưỡng sức 10 ngày tại thành phố này. Sau đó, Muhammad và Sufyan xua quân tấn công một tiểu quốc của đế quốc Byzantine. Vua của tiểu quốc này là Yuhunna xin đầu hàng và xin thần phục Muhammad. Các cộng đồng Ả Rập và Do Thái tại Jarba và Adruh (tức xứ Jordan ngày nay), đều xin làm chư hầu của Muhammad.

      Tháng giêng năm 631, tất cả các bộ lạc trên bán đảo Ả Rập bao la (gấp 8 lần diện tích Việt Nam) đều được đặt dưới sự cai trị của Muhammad.

      Đến đầu năm 632, nhiều chiến sĩ Hồi Giáo cảm thấy mỏi mệt vì những cuộc chinh chiến liên miên trong nhiều năm qua. Muhammad cổ võ tinh thần mọi người với lý luận cho rằng những cuộc chinh chiến đó cốt để thực hiện Ý Chúa (God’s Will). Việc thực hiện ý Chúa trong lịch sử loài người không bao giờ ngừng nên người Hồi Giáo phải luôn luôn tiếp tục chiến đấu.

      Cuộc chiến đấu để truyền đạo lúc đầu luôn luôn bằng phương tiện quân sự và chính trị để dẫn đến sự phục tòng tôn giáo. Hồi Giáo có nghĩa là phục tòng (Islam means submission). Khi Hồi Giáo toàn trị trên một xã hội phục tòng tôn giáo thì đó là một xã hội hòa bình, nói đúng hơn là Hòa Bình Hồi Giáo (Pax Islamica). Muhammad chú ý thực hiện cuộc chiến đấu trên cả hai mặt: quân sự và tôn giáo.

      Về quân sự, Muhammad trông cậy vào Abu Sufyan và Khalid. Về tôn giáo, Muhammad chú trọng thuyết giảng cho bốn người chủ yếu là Abu Bakr, Umar, Uthman và Ali. Trong bốn người này, Muhammad yêu thương nhất Ali vì Ali là con út của ông chú Abu Talib đã nuôi Muhammad từ nhỏ đến lớn. Cũng vì yêu thương Ali nên ông đã gả con gái út là Fatimah cho Ali. Vợ chồng Ali có hai đứa con trai tên là Hassan và Husayn. Muhammad cũng rất yêu thương hai đứa cháu ngoại này. Ông thường làm ngựa cho hai đứa cháu cưỡi trên lưng chạy khắp nhà. Sau này, hai đứa cháu ngoại của Muhammad bị phe Hồi Giáo Sunni giết chết và trở thành hai vị đại thánh tử đạo của giáo phái Shiite. Người Chàm ở Việt Nam theo đạo Hồi có nơi thờ Ali và đọc kinh cầu nguyện xưng tụng Ali là con của Thiên Chúa (Son of God).

      Đầu năm 632, đứa con trai út của Muhammad với cô gái Ai Cập Myriam bị bệnh chết. Muhammad khóc lóc thảm thiết. Ông cũng linh cảm sắp chết nên nói với mọi người: “Tôi sắp đoàn tụ với đứa con trai yêu quí của tôi”. Cuối tháng 2 năm 632, Muhammad yêu cầu mọi người cùng các bà vợ đưa ông đến viếng đền thờ Kaaba ở Mecca lần cuối cùng.

      Sau khi viếng Kaaba, ông yêu cầu mọi người đưa ông lên núi Arafat. Tại đây ông giảng bài giảng giã từ (Farewell Sermon) nhấn mạnh: Mọi tín đồ Hồi Giáo là anh em (Muslims are brethen).

      Sau đó, Muhammad được đưa trở về Medina. Từ đó ông bị chứng đau đầu liên miên. Chứng đau đầu có thể do hậu quả của lần ông bị thương nơi đầu trong trận Uhud trước đây. Các bà vợ đều lo lắng chăm sóc Muhammad nhưng ông yêu cầu đưa ông về phòng của Aisha. Lúc này Aisha vừa tròn 18 tuổi. Nàng đặt ông gối đầu lên đùi của nàng và nàng yêu cầu cha ruột là Abu Bakr đọc kinh cầu nguyện cho tiên tri.

      Ngày 18 tháng 6 năm 632, Muhammad trút hơi thở cuối cùng trong vòng tay của Aisha.

      Khi hay tin Muhammad qua đời, nhiều phụ nữ tại Medina than khóc thảm thiết, nhiều người khác hướng mặt về đền thờ cầu nguyện.

      Trước khi Muhammad qua đời, ông không hề dự liệu cắt cử người kế nhiệm. Nay sự việc ông mất xảy ra quá đột ngột đã khiến cho cả cộng đồng lúng túng không biết phải bầu chọn ai. Ali là người thân của Muhammad nhưng vì quá trẻ nên không được bầu. Abu Badr lớn tuổi và có uy tín nhất đã được cộng đồng bầu lên làm người đầu tiên kế vị Muhammad. Abu Badr được coi như là vị giáo chủ giáo phái Sunni (Đa Số) của Hồi Giáo.

      Nguồn: Sách hiếm

Viewing 0 reply threads
  • You must be logged in to reply to this topic.