Tác giả: Alexander L. Vuving | Biên dịch: Lê Hoàng Giang
Yếu tố then chốt đang thay đổi cục diện trò chơi của các quốc gia khu vực Châu Á – Thái Bình Dương là gì? Dựa theo những quan điểm có ảnh hưởng nhất trên các phương tiện truyền thông thì câu trả lời có vẻ là sự trỗi dậy của Trung Quốc. Tuy bề ngoài hiển nhiên là vậy, song đây lại là câu trả lời sai. Dù sự trỗi dậy của Trung Quốc đang gây ra những thay đổi lớn nhất về lượng trong cục diện an ninh Châu Á – Thái Bình Dương, việc Trung Quốc chuyển hướng ra biển mới là bước phát triển có tầm quan trọng nhất về chất.
Trung Quốc đã vươn lên đứng đầu châu Á nhiều lần trong quá khứ, nhưng việc nước này chuyển hướng chiến lược sang phía biển trong thời gian gần đây thì chưa từng có tiền lệ. Nếu quả thực tương lai là do quá khứ định đoạt, thì sự trỗi dậy của Trung Quốc sẽ không thực sự ảnh hưởng đến ưu thế tuyệt đối về hải quân của Mỹ ở khu vực Tây Thái Bình Dương, và sự tranh giành bá quyền giữa Mỹ và Trung Quốc có thể sẽ không xảy ra. Quan điểm này chính là cốt lõi của chiến lược “cân bằng ngoài khơi” (offshore balancing – đứng từ xa giữ cân bằng quyền lực trong một khu vực mà không can thiệp trực tiếp vào khu vực đó) đang thịnh hành tại nước Mỹ ngày nay và được nhiều người cho là chiến lược lớn mà Tổng thống Barack Obama đang theo đuổi.
Cứ theo như quan điểm này thì vì Trung Quốc là cường quốc lục địa nên sự trỗi dậy của nước này sẽ khiến nó trở thành một con voi khổng lồ. Trong khi đó, nước Mỹ, với tư cách một cường quốc biển, lại giống như một con cá voi lớn. Dù cả hai đều rất mạnh, nhưng mỗi bên chỉ mạnh trong lãnh địa riêng của mình, và không bên nào có đủ khả năng vật chất hay ý chí chính trị để định đoạt tình hình trong lãnh địa của bên kia. Từ đây suy ra, nếu Washington chấp nhận ưu thế của Bắc Kinh trên lục địa châu Á, thì Mỹ có thể tránh được một cuộc xung đột không cần thiết với Trung Quốc trong khi vẫn duy trì vai trò chi phối của mình ở khu vực hải dương của châu Á.
Một người ủng hộ mạnh mẽ quan điểm này là cựu Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ Zbigniew Brzezinski. Brzezinski cũng là người cổ võ cho khái niệm về một nhóm G-2 gồm Mỹ và Trung Quốc. Có tin cho rằng ông đã mang ý tưởng này sang đề xuất với Trung Quốc trong tư cách phái viên không chính thức của Obama chỉ vài ngày trước khi Obama nhậm chức tổng thống. Trong cuốn sách Tầm nhìn Chiến lược: Nước Mỹ và Cuộc Khủng hoảng Quyền lực Toàn cầu (Strategic Vision: America and the Crisis of Global Power), Brzezinski cho rằng cuộc tranh giành quyền lực tối cao ở châu Á sẽ không diễn ra giữa con cá voi Mỹ và con voi Trung Quốc, mà giữa hai con voi châu Á với nhau là Trung Quốc và Ấn Độ. Do cường quốc biển có những hạn chế cố hữu trong một cuộc tranh đua trên đất liền như vậy, ông ta khuyên nước Mỹ nên đứng bên ngoài và không liên kết chiến lược với Ấn Độ để tránh bị lôi kéo vào một cam kết quan trọng trên đất liền. Cách tiếp cận giữ khoảng cách như vậy sẽ khiến Mỹ trở thành tác nhân cân bằng ngoài khơi theo đúng nghĩa, có thể tuỳ cơ mà ủng hộ nước này chống lại nước kia, hoặc “toạ sơn quan hổ đấu” từ xa đứng nhìn Trung Quốc và Ấn Độ đấu nhau đến mệt nhừ trong khi Washington đứng ngoài và tiết kiệm sức mạnh của mình.
Chiến lược khôn khéo như vậy quả là hấp dẫn trong thời đại mà sự kiệm sức được ưu tiên, và nếu để trực giác quyết định thì đây sẽ là lựa chọn số một của một nước Mỹ đã mệt mỏi với những cuộc can thiệp ở hải ngoại. Thế nhưng, ý tưởng cốt lõi của chiến lược này lại dựa trên một cách hiểu sai lầm về các xu hướng địa chính trị trong thế kỷ vừa qua. Quá trình công nghiệp hóa và toàn cầu hóa đã chuyển “trái tim” kinh tế châu Á từ đất liền sang vùng biển. Cùng với xu hướng này, Trung Quốc không còn là một đế chế tự cung tự cấp của ngày trước nữa; nền kinh tế của Trung Quốc ngày nay đang lệ thuộc vào các tuyến đường buôn bán trên các biển Đông Á. Không có gì đáng ngạc nhiên khi Trung Quốc ngày càng tin tưởng rằng để đoạt ngôi vị bá chủ châu Á thì trước hết phải làm chủ được vùng biển của khu vực này. Hiểu được điều này, ta sẽ lý giải được vì sao Trung Quốc gần đây đã có những động thái như tăng cường tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư với Nhật Bản và thiết lập vùng nhận diện phòng không (ADIZ) trên biển Hoa Đông, cưỡng đoạt bãi cạn Scarborough từ Philippines, đơn phương hạ đặt một giàn khoan dầu trị giá 1 tỷ USD tại vùng biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, xây dựng những căn cứ quân sự lớn trên những nơi vốn là đảo chìm thuộc quần đảo Trường Sa và thường xuyên quấy nhiễu các tàu hải quân Mỹ hoạt động trên biển Đông.
Truyền thống chiến lược lớn của Trung Quốc là hướng vào lục địa. Ngoại trừ một vài lần dưới thời nhà Nguyên và nhà Minh, nói chung đế chế Trung Hoa vẫn chấp nhận để các thế lực khác chiếm ưu thế trên những vùng biển ngoài khơi Trung Quốc. Sự cùng tồn tại của bá quyền Trung Quốc trên đất liền và vai trò thống trị của ngoại bang trên biển là kết quả của 3 điều kiện chủ yếu, và cả ba đều không còn tồn tại trong thời đại ngày nay.
Trước thời kỳ công nghiệp hóa, Trung Quốc dễ bị tấn công nhất ở phía Bắc và phía Tây, nơi họ phải đối mặt với những đội quân của người du mục Trung Á là những đội quân cơ động nhất và giỏi đánh thọc sâu nhất của thời bấy giờ. Những đội quân cưỡi ngựa, bắn cung này có thể lao tới, xuyên qua và chinh phục toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc. Những hiểm họa từ những đội quân du mục này lớn hơn hẳn những nguy hiểm từ dân đi biển ở phía Đông và phía Nam, những người cùng lắm chỉ có thể cướp phá các thành phố hay làng mạc dọc theo bờ biển Trung Quốc.
Nhưng kể từ thế kỷ 19, điểm yếu về quân sự của Trung Quốc đã chuyển sang vùng bờ biển. Những đội quân cưỡi ngựa, bắn cung của ngày nay là các tàu sân bay, tàu khu trục, và tàu ngầm được trang bị máy bay siêu âm, máy bay tàng hình, máy bay không người lái và tên lửa hành trình. Trong mắt các nhà hoạch định chiến lược của Trung Quốc ngày nay, việc kiểm soát biển Hoàng Hải, biển Hoa Đông và biển Đông đã trở nên tối quan trọng đối với nền quốc phòng và an ninh của Trung Quốc.
Những vùng biển này cũng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về kinh tế đối với Trung Quốc. Trước thời kỳ công nghiệp hóa, Trung Quốc là một nền kinh tế hoàn toàn tự cung tự cấp và không phải dựa vào ngoại thương để phát triển. Nhưng tất cả đã là quá khứ. Sự trỗi dậy của Trung Quốc trong thời gian gần đây chủ yếu là nhờ hội nhập kinh tế với thế giới bên ngoài. Từ khi phát động “cải cách và mở cửa” vào năm 1979, tỉ lệ phụ thuộc vào ngoại thương của Trung Quốc, tính theo tỉ lệ ngoại thương trong tổng sản phẩm quốc nội, đã tăng từ 10% lên tới hơn 70%. Bên cạnh sự phụ thuộc này, kể từ năm 1998, Trung Quốc đã là một nước nhập siêu về năng lượng. Ngân hàng Thế giới báo cáo rằng năng lượng nhập khẩu của Trung Quốc đã chiếm tới 11% tổng năng lượng nước này sử dụng trong năm 2011. Những số liệu thống kê này cho thấy nền kinh tế Trung Quốc cơ bản sẽ sụp đổ nếu bị cắt đứt các liên kết thương mại với thế giới bên ngoài. Điều khiến cho biển còn quan trọng hơn nữa đối với Trung Quốc là việc phần lớn ngoại thương và năng lượng nhập khẩu của Trung Quốc đều phải vận chuyển qua biển Hoa Đông, biển Đông và eo biển Malacca.
Không chỉ có một mình Trung Quốc phải phụ thuộc vào các tuyến đường giao lưu trên các vùng biển này. Thực ra, các biển Đông Á này là huyết mạch của cả châu Á. Hơn một nửa thương mại hàng hóa của khu vực, khoảng một nửa ngoại thương của Trung Quốc, Ấn Độ và Australia, khoảng 80% lượng dầu và khí đốt nhập khẩu của Trung Quốc, 60% nguồn cung năng lượng của Nhật Bản, và 2/3 nguồn cung năng lượng của Hàn Quốc phải đi qua các vùng biển này. Tầmquan trọng về kinh tế và quân sự của các vùng biển Đông Á đảm bảo rằng không một quốc gia nào ở châu Á ngày nay có thể đạt được uy thế tuyệt đối trong khu vực trước khi trở thành kẻ mạnh nhất về hải quân trên vùng biển Tây Thái Bình Dương.
Có 3 lý do để Trung Quốc trong quá khứ vẫn để cho các nước khác thống lĩnh các vùng biển ngoài khơi của họ. Đôi lúc là do Trung Quốc còn quá yếu không thể thách thức được các cường quốc biển. Nhưng nói chung, những vùng biển này không hề có ý nghĩa quan trọng với Trung Quốc cả về quân sự lẫn kinh tế. Hơn nữa, các thế lực thống trị vùng biển đều chủ động tạo lập quan hệ chư hầu và triều cống với Trung Quốc.
Không một điều kiện nào trong số này là hiện thực của ngày hôm nay và ngày mai. Theo dự đoán, Trung Quốc sẽ vượt Mỹ để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới vào cuối thập kỷ này. Trong khi đó, ngân sách quân sự của Trung Quốc còn tăng trưởng nhanh hơn cả nền kinh tế. Các biển bao quanh Trung Quốc đã trở nên thiết yếu cho sự phát triển và phòng vệ của nước này. Và Hoa Kỳ, cường quốc thống trị trên biển châu Á, sẽ không dễ gì chấp nhận đứng dưới trong một trật tự thế giới do Trung Quốc đứng đầu.
Nhờ có toàn cầu hóa và những công nghệ vũ khí mới, biển cả và đất liền nay đã cùng nằm trong một địa thế chiến lược đơn nhất tại châu Á. Uy thế hải quân đã trở thành điều kiện tiên quyết của sự thống lĩnh khu vực. Về phần Trung Quốc, sự gia tăng phát đạt của nước này sẽ phụ thuộc nhiều vào khả năng tiếp cận với biển hơn là việc sở hữu thị trường trên đất liền. Nhận thức rõ được những điều này, các nhà lãnh đạo Trung Quốc, bao gồm cả cựu Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Chủ tịch đương nhiệm Tập Cận Bình, đã quyết định rằng Trung Quốc cần trở thành “cường quốc biển ở cấp độ toàn cầu”.
600 năm trước, Trung Quốc đã phái một hạm đội khổng lồ dưới sự chỉ huy của viên thái giám người Hồi là Trịnh Hòa đi vào biển Đông và Ấn Độ Dương để áp đặtkiểm soát lên luồng thương mại Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương và mở rộng hệ thống chư hầu cho đế chế. Dù rất thành công, các cuộc viễn chinh này chỉ diễn ra trong khoảng thời gian chưa đến 3 thập kỷ và đã được chứng tỏ là không hề nằm trong quy luật của lịch sử Trung Quốc. Cuối cùng thì Trung Quốc vẫn là một đế chế nông nghiệp, và nhiệm vụ chính của các chuyến đi của Trịnh Hòa chỉ là để phô trương trước những người ngoại bang trong vùng lòng chảo Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương.
Ngày nay, Trung Quốc quay ra hướng biển do sự cần thiết khách quan hơn là vì ý đồ chủ quan muốn phô trương thế lực. Do vậy, sự thay đổi này sâu rễ bền gốc hơn rất nhiều so với các chuyến du hành từ 6 thế kỷ trước. So với những chuyến đi của Trịnh Hòa, sự chuyển hướng nhìn sang phía biển của Trung Quốc hiện giờ sẽ hứa hẹn có nhiều bạo lực hơn và cũng có nhiều ý nghĩa lịch sử hơn. Sự gia tăng quyền lực của Trung Quốc bản thân nó không nhất thiết sẽ gây nên mối đe dọa cho sự thống trị của Mỹ trên các vùng biển châu Á cũng như vai trò của Mỹ trong khu vực. Nhưng việc gã khổng lồ châu Á này xoay trục ra biển có thể sẽ đặt dấu chấm hết cho uy lực hải quân tuyệt đối của Mỹ trên vùng biển Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương mà hệ quả là làm suy yếu trật tự toàn cầu do Mỹ đứng đầu.
Tiến sĩ Alexander L. Vuving là Phó Giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á – Thái Bình Dương tại Honolulu, Hoa Kỳ. Quan điểm trong bài viết này là của riêng ông và không thể hiện quan điểm của nơi ông làm việc.