Liệu Việt Nam có thể giảm phụ thuộc vào vũ khí Nga?

Print Friendly, PDF & Email

Tác giả: Lê Hồng Hiệp

Cuộc xâm lược Ukraine của Nga được cho là sẽ tạo ra những tác động sâu rộng đối với Đông Nam Á. Trong lĩnh vực an ninh, một trong những tác động chính sẽ là khả năng doanh số bán vũ khí của Nga cho khu vực sẽ giảm do các lệnh trừng phạt sâu rộng của phương Tây. Việt Nam, với tư cách là nhà nhập khẩu vũ khí lớn thứ năm của Nga trên toàn cầu và là nhà nhập khẩu lớn nhất ở Đông Nam Á, sẽ bị ảnh hưởng nặng nhất, khiến Việt Nam phải đẩy nhanh việc đa dạng hóa nguồn cung vũ khí ra khỏi Nga.

Sự phụ thuộc của Việt Nam vào vũ khí Nga bắt nguồn từ mối quan hệ truyền thống của Việt Nam với Liên Xô cũ. Trong Chiến tranh Việt Nam, mặc dù Hà Nội nhận được viện trợ vũ khí từ một số nước trong khối xã hội chủ nghĩa, nhưng Liên Xô và Trung Quốc vẫn là những nhà tài trợ chính. Tuy nhiên, xét về các vũ khí hạng nặng quan trọng, Moscow là nhà cung cấp quan trọng nhất của Hà Nội. Theo thống kê chính thức của Việt Nam, từ năm 1955 đến 1975, Liên Xô đã cung cấp cho Việt Nam 1.357 hệ thống phóng tên lửa, hơn 18.300 tên lửa các loại, 316 máy bay chiến đấu, 52 tàu chiến, 21 tàu vận tải, 687 xe tăng, 601 xe bọc thép, 1.332 xe kéo pháo, bên cạnh các loại vũ khí và thiết bị quân sự khác.

Sau khi chiến tranh kết thúc năm 1975, viện trợ của Liên Xô dành cho Việt Nam chủ yếu tập trung vào hỗ trợ kinh tế, nhưng các thiết bị quân sự còn sót lại từ thời chiến tranh đã tạo ra sự phụ thuộc cho Việt Nam, khuyến khích Hà Nội tìm kiếm vũ khí nhập khẩu từ Nga sau khi Liên Xô sụp đổ. Sự phụ thuộc của Việt Nam vào vũ khí Nga càng trở nên nặng nề hơn do Việt Nam không thể tìm được các nguồn nhập khẩu thay thế khả dĩ và đáng tin cậy. Vũ khí từ các nước phương Tây nhìn chung có giá đắt hơn vũ khí Nga. Ngay cả khi Việt Nam có đủ khả năng mua, Việt Nam cũng không thể mua được một số mặt hàng do các lệnh trừng phạt và kiểm soát xuất khẩu. Ví dụ, Hoa Kỳ đã không dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam mãi cho đến năm 2016. Trong khi đó, Việt Nam không quan tâm đến việc mua vũ khí của Trung Quốc do tình trạng thiếu tin cậy lẫn nhau giữa hai nước và tình hình tranh chấp Biển Đông kéo dài.

Kể từ khi Việt Nam bắt đầu chương trình hiện đại hóa quân đội vào cuối những năm 1990, hầu hết các loại vũ khí chính mà Việt Nam mua đều có nguồn gốc từ Nga, bao gồm 6 tàu ngầm lớp Kilo, 36 máy bay đa nhiệm Sukhoi Su-30MK2, 4 tàu hộ vệ lớp Gepard 3.9 và 2 hệ thống tên lửa phòng thủ bờ biển Bastion. Dữ liệu từ Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm (SIPRI) cho thấy từ năm 1995 đến năm 2021, tổng kim ngạch nhập khẩu vũ khí của Việt Nam là khoảng 9,07 tỷ USD, trong đó Nga chiếm 7,4 tỷ USD (81,6%).

Việt Nam bắt đầu đối mặt với những khó khăn ngày càng tăng trong việc mua vũ khí từ Nga sau khi Nga sáp nhập Crimea vào năm 2014. Một trường hợp điển hình là việc Việt Nam mua các tàu hộ vệ lớp Gepard thứ ba và thứ tư từ Nga. Khi đó, Nga đang đóng các tàu này cho Việt Nam nhưng được cho là đã gặp khó khăn trong việc mua động cơ từ Ukraine. Do đó, Việt Nam phải tiến hành đàm phán song song với Nga để duy trì dự án, và với Ukraine để có thể mua được động cơ. Cuối cùng, sau một thời gian trì hoãn, hai con tàu này đã được đưa vào biên chế năm 2017, nhưng những thách thức kể trên đã khiến Việt Nam từ bỏ kế hoạch mua thêm hai tàu chiến tương tự từ Nga.

Những khó khăn gia tăng trong việc mua vũ khí từ Nga có thể cũng đã giải thích cho việc tại sao, cũng theo số liệu của SIPRI, Nga chiếm tới 90% lượng vũ khí nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 1995-2014 nhưng chỉ chiếm 68,4% trong giai đoạn 2015-2021. Trong giai đoạn sau, Việt Nam dường như đã cố gắng đa dạng hóa các nguồn cung cấp vũ khí của mình ra khỏi Nga. Một số nhà cung cấp vũ khí mới nổi cho Việt Nam trong giai đoạn 2015-2021 bao gồm Israel (13,7%), Belarus (5,7%), Hàn Quốc (3,3%), Hoa Kỳ (3%) và Hà Lan (2,4%).

Các biện pháp trừng phạt mới của phương Tây đối với Nga sau khi Nga xâm lược Ukraine sẽ khiến Việt Nam ngày càng khó tiếp tục nhập khẩu vũ khí từ Nga hơn. Thứ nhất, sẽ có những trở ngại về mặt kỹ thuật và tài chính vì Nga sẽ không tiếp cận được với một số bộ phận và linh kiện nhập khẩu cần thiết cho việc sản xuất vũ khí của mình, trong khi các ngân hàng lớn của Nga đã bị loại khỏi mạng lưới thanh toán toàn cầu SWIFT, khiến hai bên khó giải quyết các khoản thanh toán. Thứ hai, tiếp tục mua vũ khí từ Nga sẽ dẫn đến rủi ro về uy tín, khiến Việt Nam có thể phải chịu các lệnh trừng phạt tiềm tàng, chẳng hạn như Đạo luật Ứng phó với các đối thủ thông qua trừng phạt (CAATSA) năm 2017 của Washington. Do đó, trong tương lai, Việt Nam nhiều khả năng sẽ đẩy mạnh nỗ lực giảm phụ thuộc vào vũ khí Nga.

Mặc dù vậy, sẽ không dễ để Việt Nam có thể mua được vũ khí và thiết bị quân sự mới từ các nước khác. Quá trình hiện đại hóa quân đội của Việt Nam đã bị chậm lại kể từ năm 2016, và ngân sách dành cho mua sắm các mặt hàng quân sự mới có vẻ eo hẹp, khiến vũ khí từ các nước phương Tây trở nên ít hấp dẫn hơn đối với Việt Nam về mặt giá cả. Khả năng tương thích giữa các nền tảng vũ khí của Liên Xô/Nga và các nền tảng mới hơn không phải của Nga cũng sẽ là một thách thức. Quan trọng hơn, vì nhiều quan chức cấp cao trong quân đội Việt Nam đã được đào tạo ở Liên Xô hay Nga, và đã quen làm ăn với các đối tác Nga, nên họ có thể gặp khó khăn khi giao dịch với các nhà cung cấp mới có văn hóa kinh doanh khác biệt, bao gồm cả các thông lệ kinh doanh minh bạch hơn, điều mà các quan chức Việt Nam có thể cảm thấy không thoải mái.

Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào một nguồn vũ khí duy nhất sẽ khiến Việt Nam gặp nhiều rủi ro nghiêm trọng. Ngoài các vấn đề nêu trên, quan hệ ngày càng chặt chẽ của Moscow với Bắc Kinh là một nguồn rủi ro khác mà Hà Nội cần lưu tâm, nếu xét tình hình tranh chấp Biển Đông ngày càng phức tạp. Việc đưa ra các kế hoạch nhằm giảm phụ thuộc vào vũ khí Nga vì vậy sẽ ngày càng trở nên quan trọng hơn đối với Việt Nam. Vấn đề tương thích có nghĩa là điều này cần phải được thực hiện theo từng giai đoạn, đồng bộ việc loại biên các nền tảng cũ của Nga với việc mua sắm các nền tảng mới từ các nhà cung cấp khác. Trong quá trình này, ngoài việc nâng cao năng lực sản xuất vũ khí trong nước, việc tăng cường hơn nữa quan hệ chiến lược với các nhà cung cấp thay thế tiềm năng cũng sẽ giúp Hà Nội quản lý tốt hơn các nỗ lực đa dạng hóa nguồn nhập vũ khí của mình.

Một phiên bản tiếng Anh của bài viết đã được xuất bản trên Fulcrum.sg.