Trung Quốc và tương lai địa chính trị của Châu Á

China_US

Tác giả: Mohan Malik | Biên dịch: Viết Tuấn | Hiệu đính: Kim Minh

Giáo sư Mohan Malik cho rằng đây là thập kỷ của những chuyển giao quyền lực ở Châu Á, trong đó Trung Quốc đóng vai trò quan trọng quyết định cục diện ở khu vực.

Hội nghị Shangri-la gần đây ở Singapore đã chứng kiến những đối đáp có phần gay gắt giữa Trung Quốc và các bên tham dự khác. Việc Bắc Kinh triển khai giàn khoan cùng hơn 80 tàu bảo vệ ra Biển Đông, chỉ bốn ngày sau “chuyến thăm mang tính trấn an” của Tổng thống Mỹ Barack Obama tới các nước láng giềng Đông Á của Trung Quốc vào tháng 4 năm 2014, được xem là hành động khiêu khích có tính toán.

Tuy nhiên, động thái trên của Trung Quốc phản ánh đúng mô hình thúc đẩy yêu sách ở khu vực ngoại vi mà nước này đang áp dụng bằng hăm dọa, ép buộc, và đe dọa sử dụng vũ lực thông qua “các hoạt động bán quân sự chưa tới mức chiến tranh” (Paramilitary operations short of war – POSOW). Giàn khoan của Trung Quốc giống như một thông điệp chính trị thể hiện quyết tâm cũng như khả năng của nước này trong việc kiểm soát và khai thác Biển Đông đồng thời phủ nhận các bên yêu sách khác – và nó được gửi tới Washington cũng như Tokyo, Hà Nội, Manila, Jakarta, và New Delhi.

Cùng với việc thăm dò dầu khí ở vùng biển tranh chấp, giàn khoan trị giá 1 tỷ USD này cũng đã khoan một lỗ lớn vào “chiến lược xoay trục” của Washington bởi nó ảnh hưởng tới uy tín của Washington với vai trò điểm tựa an ninh của khu vực hay người bảo vệ an ninh. Về cơ bản, đây giống như một sự mỉa mai cam kết an ninh của Mỹ đối với khu vực trong bối cảnh Trung Quốc sử dụng chiến thuật cưỡng ép nhằm thay đổi hiện trạng. Bắc Kinh cho rằng các láng giềng nhỏ bé và nước Mỹ sẽ không sử dụng vũ lực để ngăn cản việc Trung Quốc nỗ lực biến Biển Đông thành “ao nhà” của mình. Trung Quốc hiện đang lặng lẽ, kiên nhẫn triển khai từng bước và cuối cùng tập hợp tất cả lại “khi điều kiện chín muồi.”

Nguyên nhân chủ yếu cho việc Trung Quốc hành xử quyết đoán trên biển là sự dịch chuyển mang tính kiến tạo trong môi trường chiến lược của Bắc Kinh, diễn ra sau khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991. Lần đầu tiên trong suốt chiều dài lịch sử, Trung Quốc không phải đối mặt với bất kỳ mối đe dọa nào ở biên giới phía bắc và chính diễn biến địa chính trị quan trọng này lý giải cho động thái bành trướng quân sự của Trung Quốc ở bờ biển phía đông và vùng biên giới phía tây nam. Chúng ta cần nhớ lại rằng các triều đại nối tiếp nhau của Trung Quốc đã xây dựng Vạn Lý Trường Thành để ngăn cản sự quấy nhiễu của người Mông Cổ và các bộ tộc Mãn Châu ở phía bắc khi các bộ tộc này thường tràn vào cướp bóc thời nhà Hán.

Năm 1433, trước những cuộc tấn công ngày càng táo bạo của quân Mông Cổ cùng mối đe dọa từ các bộ tộc ở Trung Á đối với vùng biên cương tây bắc, các vị vua triều Minh của Trung Quốc đã tạm dừng những chuyến đi biển tốn kém của Đô đốc Trịnh Hòa để tập trung nguồn lực bảo vệ vùng biên cương của Vương quốc Trung Nguyên. Từ thế kỷ 18 đến thế kỷ 20, một nước Nga Sa hoàng lớn mạnh và tiếp theo đó là Liên Xô luôn là mối quan tâm của các nhà hoạch định quân sự Trung Quốc. Ngoại trừ một khoảng thời gian ngắn vào những năm 1950 khi hai bên có quan hệ nồng ấm, còn lại Bắc Kinh luôn canh cánh hiểm họa từ phía bắc trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh cho tới khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991.

Bất chấp những quan ngại địa chính trị như Trung Quốc xâm lấm vùng Viễn Đông và khu vực Trung Á có thể rơi vào vùng ảnh hưởng của nước này, Tổng thống Nga Vladimir Putin – trước thực tế bị Châu Âu và Mỹ cô lập sau khi Nga sáp nhập Crimea và tình trạng bất ổn đang tiếp diễn ở miền đông Ukraine – đã chấp thuận những điều khoản không hề dễ chịu từ Trung Quốc khi ký kết một thỏa thuận lớn về đường ống dẫn khí đốt nhằm đa dạng hóa thị trường xuất khẩu năng lượng của Nga ngoài Châu Âu, và biến Trung Quốc trở thành đồng minh quan trọng của Nga. Trong một loạt vấn đề, Nga và Trung Quốc đang thách thức trật tự quốc tế thời kỳ hậu chiến tranh lạnh. Mặc dù Trung Quốc đã không ủng hộ Nga trong vấn đề Georgia hay Crimea, nhưng ông Putin tin rằng mối quan hệ giữa Moscow và Bắc Kinh đang ở giai đoạn nồng ấm nhất.

Nếu “liên minh Trung-Nga” được hồi sinh, thì có một sự đảo ngược hoàn toàn về vai trò các bên kể từ đầu thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Trung Quốc – chứ không phải một nước Nga suy yếu về kinh tế và nhân khẩu học – đóng vai trò chủ đạo trong liên minh này. Giống như trong quá khứ, những rắc rối gặp phải ở phía Tây một lần nữa buộc Nga đưa ra những nhượng bộ ở phía Đông. Kế hoạch của Bắc Kinh là khiến Nga phụ thuộc kinh tế vào nước này như phương Tây bị chinh phục bởi hàng hóa giá rẻ do Trung Quốc sản xuất. Ấn Độ cần phải tái điều chỉnh quan hệ với một nước Nga đang đóng vai trò thứ yếu so với Trung Quốc và đang cùng chung tay với Bắc Kinh cung cấp vũ khí cho Pakistan.

Không có gì ngạc nhiên khi các phương tiện truyền thông tràn ngập thông tin về một “liên minh chiến lược Trung – Nga mới có khả năng thống trị vùng trung tâm [của lục địa Á Âu],” báo hiệu “cơn ác mộng về tương quan lực lượng theo thuyết Mackinder đối với Washington.” Một số người liên tưởng việc hình thành trục Bắc Kinh-Moscow-Teheran dựa trên các yếu tố năng lượng, thương mại và an ninh trên toàn lục địa Á-Âu. Dù nguyên nhân Nga xoay trục sang Châu Á bắt nguồn từ sự bất ổn ở phía Tây khi nước này ở một vị thế yếu, nhưng người ta có thể thấy Washington ngày càng bị thách thức bởi các nước đang tìm cách thay đổi cán cân quyền lực trong khu vực.

Vì vậy, quan niệm cho rằng Châu Á bị mất cân bằng đang trở nên khá phổ biến. Một nước Mỹ mệt mỏi sau các cuộc chiến cùng sự eo hẹp về ngân sách rõ ràng đã thúc đẩy các cường quốc xét ​​lại như Trung Quốc và Nga hành động. Những nỗ lực của chính quyền Obama nhằm “tái cân bằng” vai trò của Mỹ ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương bị ảnh hưởng bởi nhận thức chung về sự bất đối xứng chiến lược cùng cán cân địa chính trị đang thay đổi nhanh chóng. Cuộc tranh giành quyền kiểm soát “các tài sản chung” (như biển, không gian mạng và không gian vũ trụ) ngày càng quyết liệt. Những quan ngại chiến lược xuất hiện ngày càng nhiều khi tham vọng, sức mạnh và ảnh hưởng đang lên của Trung Quốc đi ngược lại với lợi ích của các cường quốc hiện thời.

Biên tập viên Zackary Keck của tờ Diplomat và học giả Chen Dingding đã bắt đầu một cuộc tranh luận liệu Trung Quốc trở thành một bá chủ toàn cầu kiểu khác hay sẽ hành xử giống như Mỹ và các bá quyền trong quá khứ. Dĩ nhiên giới lãnh đạo Trung Quốc rất khó tránh tham vọng bá chủ hay cách hành xử của một siêu cường. Trái với những tuyên bố chính thức, Trung Quốc đang hành xử không khác gì các cường quốc trỗi dậy đã làm trong lịch sử: Thiết lập mốc giới mới, vẽ ra các biên giới mới trên đất liền, bầu trời, đại dương xung quanh khu vực ngoại vi, cố gắng mở rộng biên giới trên bộ và trên biển, hình thành và sửa đổi các thể chế đồng thời ép buộc các bên khác đi theo quỹ đạo của mình. Vẽ bản đồ có thể trở thành một ngành kinh doanh phát triển ở Trung Quốc. Cách hành xử quốc tế của Bắc Kinh (nghĩa là cách “thể hiện sức mạnh” của họ chắc hẳn sẽ không khác gì các siêu cường khác.

Do vậy, Châu Á-Thái Bình Dương hiện đứng trước ngưỡng của sự thay đổi – những điều đã biết và chưa biết; đầy rẫy các thách thức và bất ổn. Tôi cho rằng sẽ có 7 sự dịch chuyển chiến lược lớn quyết định hành vi chiến lược của Trung Quốc cũng như bối cảnh địa chính trị Châu Á trong nhiều năm cũng như nhiều thập kỷ tới.

Xung đột giữa Cường quốc Mới nổi và Cường quốc Hiện thời

Quyền lực trong hệ thống quốc tế mang tính tương đối và luôn luôn dịch chuyển. Trong ba thập kỷ qua, Trung Quốc đã chứng tỏ khả năng đáng kinh ngạc trong việc vạch kế hoạch và huy động nguồn lực quốc gia để thực hiện các chiến lược hành động với mục tiêu cụ thể trong các lĩnh vực như kinh tế, ngoại giao và quân sự. Tác động toàn cầu từ sự thành công của Trung Quốc sẽ là “khổng lồ kiểu Trung Quốc-Chigantic” (ghép hai từ “China” và “gigantic” của từ điển Oxford). Nếu Trung Quốc duy trì được đà tăng trưởng, tổng sản phẩm quốc nội của nước này (GDP), quân sự, và chi phí Nghiên cứu và Phát triển có thể cạnh tranh với các chỉ số tương tự của Mỹ, mặc dù không phải về chất lượng mà về số lượng. Trung Quốc đang nổi lên như một đối thủ ngang cơ mạnh hơn Liên Xô trước đây.

Không cường quốc trỗi dậy nào sẽ chấp nhận duy trì nguyên trạng. Về bản chất, các cường quốc có xu hướng bành trướng. Điều này thực sự có sức hút khó cưỡng. Năm 2009, một trong những cuốn sách bán chạy nhất ở Trung Quốc có nhan đề “Trung Quốc không hài lòng”. Người ta tự hỏi, Trung Quốc có thể nắm cả thế giới vậy tại sao họ lại không hài lòng.

Trong lịch sử, các cường quốc trỗi dậy thường có những nỗi lo sợ hoang tưởng và chứa đầy nghi kỵ: họ cho rằng các nước khác quyết tâm đánh bại và ngăn chặn họ trên con đường tiến tới quyền lực. Kỳ vọng quá nhiều và quá sớm, các cường quốc này thường phản ứng thái quá. Điều này đôi khi khiến họ sụp đổ. Chúng ta hãy nhớ lại trường hợp của Nhật Bản và Đức. Cường quốc đang lên cũng có xu hướng mạo hiểm, thiếu kiên nhẫn. Họ phô trương sức mạnh và thử thách quyết tâm của các cường quốc già cỗi. Cường quốc trỗi dậy khai thác điểm yếu trong quyết tâm – chứ không phải năng lực – của các cường quốc hiện thời bằng cách sử dụng chiến thuật bất đối xứng để dần loại bỏ vị thế bá chủ của những cường quốc này.

Sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, Trung Quốc đã chuyển chính sách từ “ẩn mình chờ thời” sang “nắm bắt cơ hội”, vươn lên dẫn đầu và phô trương sức mạnh nhằm định hình lựa chọn của các bên khác theo hướng có lợi cho mình.” Trật tự quốc tế sau chiến tranh phụ thuộc vào ba yếu tố: Các liên minh của Mỹ, vị thế thống trị trên biển không thể thách thức của Mỹ, và cán cân quyền lực tương đối ổn định. Tất cả những yếu tố trên đang bị thách thức bởi mục tiêu và sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc. Trung Quốc – nước hưởng lợi nhiều nhất từ trật tự thế giới sau chiến tranh – giờ đây nhận thấy sự thống trị của Mỹ không còn đem lại lợi ích cho nước này.

Một sĩ quan quân đội Trung Quốc đã nhận xét: “Sự hiện diện của Mỹ và các đồng minh sẽ kìm hãm tương lai phát triển cũng như mục tiêu trong khu vực của Trung Quốc.” Bắc Kinh coi các liên minh của Mỹ là “tàn dư của Chiến tranh Lạnh”, cần phải được loại bỏ để khôi phục cái mà nước này gọi là “sự cân bằng quyền lực tự nhiên trong khu vực“ (nghĩa là: một Trật tự Thứ bậc trong đó Trung Quốc chiếm vị trí trung tâm của Châu Á như trong thời cận đại). Chấp nhận đóng vai trò thứ yếu so với các cường quốc khác không nằm trong gen của người Trung Quốc. Moscow đã đúc kết điều này một cách đầy cay đắng trong những năm 1950. Và giờ đến lượt người Mỹ với giấc mơ ấp ủ kết nạp Trung Quốc làm thành viên đàn em. Nhiều người cho rằng các chế độ không chia sẻ quyền lực hay tuân thủ nguyên tắc pháp luật cai trị trong chính trị nội địa thì cũng sẽ không tuân thủ luật lệ trong chính trị quốc tế hoặc chia sẻ quyền lực ở chính trường thế giới.

Mục tiêu chiến lược Châu Á của Trung Quốc là làm xói mòn uy tín của Mỹ với vai trò người bảo đảm an ninh khu vực. Bất kể các tuyên bố ngoại giao của Bắc Kinh như thế nào, “Quan hệ Cường quốc Kiểu mới” thực chất hướng tới việc Mỹ công nhận quyền bá chủ của Trung Quốc ở Châu Á trong một thỏa thuận địa chính trị nhằm hạn chế vai trò và sự hiện diện của Washington tại khu vực, và gạt bỏ các đồng minh truyền thống của Mỹ (đặc biệt là Nhật Bản) ra bên lề. Sự thúc ép này sẽ tiếp tục trong nhiều thập kỷ tới bởi Trung Quốc coi Mỹ đang “tụt dốc không phanh và ngày càng suy yếu trong khi Bắc Kinh ngày càng mạnh hơn.”

Theo quan điểm của Bắc Kinh, vấn đề chính là làm sao để tận dụng và hưởng lợi từ việc Mỹ suy yếu. Về phía Washington, thách thức là làm thế nào quản lý sự trỗi dậy của Trung Quốc bên trong trật tự do Mỹ dẫn dắt mà không giảm bớt vai trò và sự hiện diện của nước này. Bên nào chiếm thế thượng phong trong cuộc đấu này sẽ quyết định tương lai trật tự thế giới. Chính vì điều này mà các quan chức chính quyền Obama đã tới thăm các nước Châu Á để trấn an bạn bè và đồng minh về những cam kết an ninh của Mỹ, đồng thời tái khẳng định quyết tâm của Washington trong việc tái cân bằng Châu Á.

Điều quan trọng là sự trỗi dậy của Trung Quốc cũng gặp phải những thách thức. Dưới sự lãnh đạo của ông Shinzo Abe, Nhật Bản đang trở thành một “quốc gia bình thường” với việc dỡ bỏ rào cản về tự vệ tập thể và chuyển giao vũ khí. Còn Ấn Độ đã tái cân bằng trên phương diện kinh tế và chiến lược đối với khu vực Châu Á-Thái Bình Dương trong gần hai thập kỷ thực hiện chính sách “Hướng Đông”. Với chiến thắng của đảng BJP dưới sự lãnh đạo của ông Narendra Modi trong cuộc bầu cử tháng 5 năm 2014, Ấn Độ có thể sẽ trở lại đầy mạnh mẽ. Do Bắc Kinh không từ bỏ chính sách vừa can dự kinh tế đối với Ấn Độ vừa tìm cách bóp nghẹt nước này về phương diện địa chính trị, một Ấn Độ hồi sinh sẽ trở thành người bảo vệ cán cân quyền lực Châu Á ở phía nam và chặn đứng nỗ lực thiết lập vị thế bá chủ của Trung Quốc.

Các nước nhỏ và tầm trung (như Singapore, Hàn Quốc, Indonesia, Việt Nam, Philippines, và Australia) cũng đang tích cực hành động vì mục tiêu cân bằng và giành lợi thế. Đặc biệt là Indonesia và Việt Nam đã cải thiện đang kể sức mạnh hải quân của mình trong bối cảnh tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông leo thang.

Về phần mình, nước Nga đang sử dụng nguồn năng lượng khổng lồ làm công cụ quay trở lại vũ đài chính trị thế giới. Dù cho cuộc khủng hoảng Ukraina đã giảm bớt sức nóng, chính sách xoay trục Châu Á của Nga vẫn sẽ được thúc đẩy do sự cô lập từ phương Tây với các lệnh trừng phạt; thỏa thuận cung cấp khí đốt thời hạn 30 năm của Gazprom cho Trung Quốc trị giá 400 tỷ USD; và nhu cầu ngày càng tăng từ các nước láng giềng của Bắc Kinh đối với các khí tài và nguồn năng lượng của Nga. Nhưng ít khả năng Nga sẽ trở thành một “Canada của Trung Quốc” mà không có bất kỳ phản kháng nào. Tất cả những điều này đã tạo nên một môi trường địa chính trị vô cùng rối rắm, phức tạp ở Châu Á.

Những cường quốc hiện nay ở Châu Á-Thái Bình Dương cũng giống như Đức, Pháp, Anh và Ý ở đầu thế kỷ 20. Họ vươn ra thế giới để tìm kiếm thị trường, nguồn tài nguyên và các căn cứ; cạnh tranh quyền lực và tầm ảnh hưởng; chèn ép và tranh giành ở các khu vực khác nhau trên thế giới, qua đó hình thành những quan hệ đối tác tự nhiên vốn là đặc trưng của chiến lược phòng ngừa.

Cuộc cạnh tranh quyền lực chủ yếu diễn ra giữa Mỹ và Trung Quốc, nhưng trên đại dương và đất liền thì là cuộc cạnh tranh giữa Trung Quốc và Nhật Bản; giữa Trung Quốc và Ấn Độ. Hải quân Ấn Độ và Trung Quốc đang hiện diện ở Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương với tần suất ngày càng nhiều hơn. Logic của địa chính trị – đó là Nhật Bản và Ấn Độ quan ngại về vị thế của mình ở một Châu Á mà Trung Quốc ở vị trí trung tâm – sẽ gắn kết hơn nữa mối quan hệ Nhật-Ấn dưới sự lãnh đạo của ông Abe và ông Modi. Điều này làm tăng thêm những cạnh tranh chiến lược giữa Bắc Kinh với Tokyo và New Delhi.

Giống Châu Âu vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, Châu Á-Thái Bình Dương đầu thế kỷ 21 xuất hiện một số cường quốc trỗi dậy, đầy tính ganh đua bên cạnh một số quốc gia suy yếu hoặc dễ bị tổn thương. Các cường quốc trỗi dậy này hình thành cán cân chiến lược mới do quan hệ đối tác và liên minh giữa các quốc gia thay đổi. Châu Á-Thái Bình Dương đầu thế kỷ 21 có nhiều điểm tương đồng với Châu Âu cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, chứ không phải Châu Âu với các cường quốc già cỗi, đang suy yếu của thế kỷ 21. Động thái của Nga đối với Ukraina có thể khiến các cường quốc Châu Âu không hài lòng nhưng các nước châu Âu không đưa ra phản ứng chiến lược quan trọng chống lại Moscow. Điều này chắc chắn không xảy ra ở Châu Á. Lần đầu tiên trong lịch sử hiện đại, Châu Á đang chi tiêu cho quốc phòng nhiều hơn Châu Âu. Sự nổi lên của các nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa dân tộc ở Nhật Bản, Philippines và Ấn Độ một phần bởi thất bại rõ ràng từ những người tiền nhiệm của họ trong việc đối phó với sự xâm lấn của người Trung Quốc.

Mối quan ngại về Địa Chính trị

Đây là thập kỷ của chuyển giao quyền lực ở Châu Á. Đối với các nước láng giềng nhỏ bé của Trung Quốc, đây là một thập kỷ đầy nguy hiểm. Với các nước trong khu vực, Trung Quốc gợi lên một cảm giác bất an vì sự rộng lớn, mức độ liền kề, lịch sử cũng như sức mạnh của nước này, và quan trọng hơn, chính bởi ký ức về “hội chứng Vương quốc Trung Nguyên” hoặc hệ thống các nước chư hầu vẫn chưa phai mờ. Trong lịch sử, Trung Quốc chưa từng chấp nhận chung sống bình đẳng với cường quốc khác có sức mạnh tương đương hoặc yếu hơn.

Trong quá khứ, một Trung Quốc thịnh vượng và hùng mạnh đòi hỏi các nước khác phải quy thuận và kính nể. Điều đã thay đổi đó là tham vọng về ý thức hệ trong quá khứ hiện được thế chỗ bởi các lợi ích kinh tế. Hầu như không có nước Châu Á nào tin vào luận điệu “Trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc” (hãy thử hỏi Mông Cổ, Nhật Bản, Việt Nam, Philippines hay Ấn Độ) hoặc tuyên bố “Không can thiệp vào công việc nội bộ” (hãy thử hỏi Bắc Triều Tiên, Campuchia, Lào, Malaysia, Indonesia, Myanmar, Nepal hay Sri Lanka).

Sự gắn kết trong quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc và các nước láng giềng Châu Á tạo cảm giác về một sự lệ thuộc cùng tâm trạng thất vọng. Trong khi các quốc gia này không phản đối sức mạnh cũng như sự thịnh vượng của Trung Quốc, thì họ cũng không sẵn lòng để mất quyền tự quyết trong việc hoạch định chính sách. Ngoại trừ một số ít (nhất là Pakistan), còn lại hầu hết các nước Châu Á (gồm cả Bắc Triều Tiên) không hề mặn mà với việc chung sống trong một Châu Á do Trung Quốc dẫn dắt hoặc chi phối.

Thay vào đó, những nước này duy trì các liên kết an ninh hiện có, thực hiện chính sách ngoại giao khôn khéo cùng chiến thuật phòng ngừa giúp họ tự chủ hành động. Bởi Trung Quốc có vai trò trung tâm trong bối cảnh địa chính trị Châu Á, “phòng ngừa” hoặc “cân bằng” kiểu cũ đang trở thành lựa chọn ưa thích nhất của các bên trong khi vẫn duy trì các lợi ích từ việc quan hệ với Bắc Kinh. Các cường quốc hiện đang tìm cách tái cân bằng vị thế và chiến lược của mình. Chính sách “tái cân bằng” của Mỹ, Chính sách “Hướng Đông” của Ấn Độ, Chính sách “Hướng Tây” của ASEAN, Chính sách “Hướng Bắc” của Úc và hợp tác quốc phòng giữa Nhật Bản với Úc, Philippines, Việt Nam và Ấn Độ cho thấy xu hướng này.

Toàn vẹn lãnh thổ là lợi ích cốt yếu của tất cả các quốc gia: Dù yếu hay mạnh, lớn hay nhỏ. Căng thẳng leo thang giữa Trung Quốc và các nước láng giềng từ Ấn Độ đến Nhật Bản trong các tranh chấp trên lục địa và đại dương đều có ý nghĩa địa chính trị. Các tranh chấp lãnh thổ chưa được giải quyết cùng “hội chứng Vương quốc Trung Nguyên” dường như bất lợi cho Bắc Kinh và có lợi cho Washington. Đề cập về căng thẳng trong tranh chấp lãnh thổ tại cuộc gặp tháng 4 năm 2014, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc, Tướng Thường Vạn Toàn đã nói với Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel rằng Bắc Kinh sẽ “không thỏa hiệp, không nhân nhượng, [và] không đánh đổi” trong cuộc chiến bảo vệ cái ông Thường gọi là “chủ quyền lãnh thổ.” Ông Thường cảnh báo rằng: “Quân đội Trung Quốc sẽ nhanh chóng tập hợp, sẵn sàng chiến đấu và giành chiến thắng.”

Người Trung Quốc có lẽ đang kinh ngạc bởi các nước láng giềng nhỏ bé đã thể hiện quan điểm cứng rắn, đầy thách thức. Bắc Kinh hy vọng các nước láng giềng tôn trọng lợi ích cốt lõi của mình bằng cách đặt nó lên trên trên lợi ích quốc gia của chính các nước này – một kiểu quan hệ chư hầu mà các nước công nhận Trung Quốc là bá chủ của Châu Á. Trong bối cảnh đó, sự hỗ trợ về quân sự của Mỹ được xem là chốt chặn lớn nhất ngăn cản Trung Quốc ép buộc Châu Á chấp nhận và quy thuận quyền lực của nước này.

Từ năm 2007, cách hành xử quyết đoán của Trung Quốc trong các tranh chấp trên biển, đất liền ở khu vực ngoại vi của nước này đã đẩy các nước láng giềng xích lại gần hơn với Washington. Vì vậy, tôi cho rằng giống như mọi sản phẩm khác thời nay, chính sách “xoay trục” hay “tái cân bằng” của Washington cũng là “Made-in-China”. Các tranh chấp chưa được giải quyết của Trung Quốc với các nước láng giềng đang tạo ra những liên kết chưa từng có trước đây. Ví dụ như liên minh Canberra-Tokyo, Manila-Hà Nội, Manila-Tokyo, Tokyo-Hà Nội, Hà Nội-New Delhi, và Tokyo-New Delhi. Mục tiêu chung của các liên kết này là tạo đối trọng với Trung Quốc, chứ không phải Nga hay Mỹ. Trên thực tế, các bên tham gia trò chơi cân bằng này với Trung Quốc (như Ấn Độ, Việt Nam, Philippines, và Indonesia) đang được Nga và Mỹ trang bị vũ khí.

Trong lịch sử, sự nổi lên của một cường quốc lục địa dẫn đến việc hình thành liên minh các cường quốc biển để cân bằng lại. Điều này đặc biệt đúng khi cường quốc lục địa đó có một thể chế chuyên quyền nuôi dưỡng nhưng nỗi oán hận lịch sử bằng các tranh chấp lãnh thổ, hoặc là một cường quốc có tính phân cực. Trung Quốc cũng không nằm ngoài quy luật này. Phần lớn các nước ở khu vực ngoại vi của Trung Quốc coi Mỹ, một siêu cường ở bên ngoài, là đối trọng thực sự của Bắc Kinh. Các nước đều muốn hưởng lợi từ quan hệ kinh tế với Trung Quốc, nhưng không bên nào muốn Trung Quốc thống trị khu vực hay các lựa chọn chính sách của họ bị nước này chi phối. Nói một cách đơn giản, không bên nào muốn Trung Quốc thay thế ngôi vị bá chủ đang bị suy yếu của Mỹ.

Mặc dù Bắc Kinh muốn khôi phục lại vị thế thống trị ở Châu Á thời kỳ cận đại, nhưng hoạt động mở rộng lãnh thổ của nước này và những thay đổi cấu trúc bên trong môi trường địa chính trị Châu Á hơn 300 năm qua không cho phép hồi sinh hệ thống các nước chư hầu với Trung Quốc ở vị trí trung tâm. Địa lý là yếu tố quyết định vai trò và sức mạnh của một quốc gia, một yếu tố không thể nào thay đổi. Lý do quan trọng khiến Mỹ trở thành siêu cường toàn cầu đó là nhờ vào vị trí địa lý độc nhất của nước này. Các nước láng giềng của Trung Quốc không phải Canada hay Mexico, mà là các cường quốc – như Nga, Nhật Bản, Việt Nam, Indonesia, Úc và Ấn Độ – những nước sẽ làm tất cả để chống lại sức mạnh của Trung Quốc bởi nguyên nhân về lịch sử, nền văn minh, địa chính trị và địa kinh tế. Sự cách biệt giữa tham vọng ở Châu Á của Trung Quốc và bối cảnh địa chính trị đang thay đổi đã ngăn cản nước này khôi phục vị thế thống trị trong quá khứ, điều này đã khiến cho người Trung Quốc cảm thán gọi là “sự bao vây Trung Quốc.”

Khách quan mà nói, đây đúng hơn là “sự quan ngại địa chính trị” chứ không phải “sự bao vây”. Sự bao vây, trong khái niệm đa chiều kinh điển của George Kennan (về kinh tế, ngoại giao, quân sự và chính trị), chủ yếu phản tác dụng trong nền kinh tế toàn cầu hóa. Quản lý sự trỗi dậy của Trung Quốc và tác động đến cách hành xử của nước này là thách thức ngoại giao lớn nhất đặt ra cho khu vực và thế giới trong những năm tới.

Cuộc Cạnh tranh Mới mà Cũ

Sự phát triển kinh tế sẽ tạo ra những lợi ích ngoài nước, thúc đẩy những tham vọng lớn về địa chính trị, và gần như chắc chắn sẽ dẫn đến việc tăng cường quân sự. Các bên sẽ tìm kiếm nguồn tài nguyên phục vụ mục tiêu tăng trưởng công nghiệp; thị trường mới để tiêu thụ hàng hóa; và các căn cứ để bảo vệ tài nguyên và thị trường giống như cách thức các cường quốc công nghiệp của Châu Âu tiến hành thuộc địa hóa Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ La tinh vào thế kỷ 18 và 19 trước đây.

Ba yếu tố tài nguyên, thị trường và căn cứ bảo vệ thường đi cùng với nhau. Trao đổi thương mại, các thị trường, khai thác tài nguyên, hải cảng và phát triển cơ sở hạ tầng là những thành phần quan trọng trong chính sách đối ngoại hiện nay của Trung Quốc. Trung Quốc đang xoay trục về phía Tây (Châu Phi, Trung Đông, Nga, Tây Nam Á và Trung Á) tìm kiếm nguồn tài nguyên, thị trường, và môi trường ngoại giao. Giống như trong quá khứ, cuộc cạnh tranh “mới” về cơ bản là cuộc tìm kiếm các thể chế ôn hòa và thân cận làm nguồn cung tài nguyên và quyền tiếp cận các hải cảng. Trò chơi chính trị thế giới không thay đổi nhiều, chỉ có người chơi là thay đổi.

Thống trị Thế giới là Câu chuyện của Quá khứ

Không một cường quốc đơn lẻ nào có thể thống trị thế giới trong tương lai, bất kể nước này sở hữu bao nhiêu sức mạnh cứng và mềm. Kể cả liên minh G-2 cũng vậy. Mạnh cỡ nào thực sự không quan trọng bằng việc bạn sở hữu sức mạnh kiểu gì. Trung Quốc dường như tin rằng nếu nước này đạt được “sức mạnh tổng thể quốc gia” mọi thứ sẽ đi vào trật tự và các nước sẽ đi theo quỹ đạo của mình. Tuy nhiên, việc chỉ có “sức mạnh tổng thể quốc gia” sẽ không giúp Trung Quốc trở thành một siêu cường toàn cầu. Cường quốc trở thành siêu cường phải có sự ủng hộ của các nước vừa và nhỏ. Với số lượng đồng minh là 58 nước và đối tác tiềm năng là 41 nước trên toàn thế giới, Mỹ vẫn là một siêu cường không có đối thủ. Sự ủng hộ của các cường quốc vừa và nhỏ, hoặc không có điều này, sẽ là sự khác biệt lớn quyết định thành công hay thất bại của việc trở thành siêu cường. Bạn không thể trở thành một nhà lãnh đạo nếu không có những người ủng hộ.

Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Trung Quốc và Ai Cập là hai quốc gia bậc trung kiểu “gió chiều nào xoay chiều ấy.” Khi Trung Quốc và Ai Cập chuyển từ ủng hộ Liên Xô sang ủng hộ Mỹ, hai nước này đã trở thành những nhân tố quan trọng trong cán cân quyền lực ở Châu Á và Trung Đông. Cán cân lực lượng đã thay đổi không có lợi cho Liên Xô và phần còn lại là lịch sử. Tái hiện nước cờ địa chính trị này, Washington đang tìm cách lôi kéo các “quốc gia đảo cánh” mới như Ấn Độ, Indonesia để tạo thế đối trọng với Trung Quốc.

Luận điểm của Mackinder hay Mahan đều giá trị như nhau

Trọng tâm địa chính trị Châu Á đang dịch chuyển vào lục địa đã tác động đến các cường quốc biển. Luận điểm của Mahan hay của Mackinder, Spykman, Kautilya và Sun Zi đều quan trọng. Mặc dù tập trung vào cạnh tranh trên biển, nhưng các trung tâm kinh tế, các thể chế mới, hành lang giao thông, đường sắt cao tốc, đường cao tốc và hệ thống các đường ống đang thay đổi môi trường địa chính trị của lục địa Á-Âu. Trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh, phần lớn sự tăng trưởng kinh tế diễn ra bên trong hệ thống liên minh “trục và nan hoa” của Mỹ ở các vùng biển Châu Á. Thời kỳ Hậu Chiến tranh Lạnh, tăng trưởng kinh tế đã diễn ra ở Trung Quốc, Ấn Độ và lục địa Đông Nam Á, bên ngoài mạng lưới liên minh Mỹ-Thái Bình Dương.

Trung Quốc, giống nước Anh và nước Nga trong quá khứ, hiện đang sử dụng phương tiện giao thông hiện đại, đường sắt cao tốc, đường cao tốc, mạng lưới đường ống để vẽ lại bản đồ địa chính trị của lục địa Á-Âu. Là một phần trong chiến lược “Hướng Tây”, Bắc Kinh đã đầu tư hàng trăm tỷ để tạo “hệ thống trục và nan hoa kinh tế” ở lục địa Châu Á bằng các đường ống, đường cao tốc, mạng lưới đường sắt liên kết Trung Quốc với các khu vực Trung Á, Tây Nam Á và Đông Nam Á. Các nan hoa hoặc hành lang huyết mạch này sẽ vận chuyển nguyên liệu thô và nguồn năng lượng, đồng thời xuất khẩu các hàng hóa của Trung Quốc tới những khu vực trên và xa hơn nữa. Tuy nhiên, lục địa Á-Âu chưa được quan tâm thích đáng bởi ba thế kỷ thống trị đại dương của người Mỹ gốc Anh dường như khiến các nhà hoạch định chính sách mắc hội chứng “mù đất liền”.

Công nghệ: Một Đòn bẩy Thực sự

Công nghệ chính là nhân tố thay đổi cuộc chơi. Trong thời chiến hay thời bình, công nghệ định hình mối quan hệ giữa các quốc gia. Công nghệ quyết định thứ bậc trong quan hệ quốc tế. Rất ít nhà kinh tế dự đoán Trung Quốc sẽ trở thành một cường quốc kinh tế. Tại sao lại như vậy? Bởi họ đã không thể thấy trước được tác động của công nghệ trong tương lai. Cũng như không ai vào năm 1990 có thể đoán biết cách thức Internet sẽ thay đổi mọi thứ, sự phổ biến nhanh chóng của những công nghệ đột phá như in ấn 3D/4D, thành tựu của công nghệ sinh học, người máy, và điện toán lượng tử là những nhân tố quyết định cuộc chơi. Một cuộc cách mạng trong sản xuất dựa trên công nghệ in ấn 3D/4D có ý nghĩa gì nếu được sản xuất -tại-Trung Quốc? Những đột phá công nghệ trong tương lai chắc chắn sẽ tạo ra người chiến thắng và kẻ chiến bại mới, đồng thời cũng đem lại các cơ hội và thách thức mới.

Địa chính trị và địa chất học có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Khi Trung Quốc và các nước khác cho rằng Mỹ đang suy yếu, thì nước này thấy mình ở đỉnh đạt với khả năng tự cung cấp năng lượng, nhờ thành tựu đột phá trong “công nghệ phân tách bằng thủy lực” (fracking technology). Cuộc cách mạng về khai thác đá phiến có thể giúp Mỹ hồi sinh và kéo dài sự thống trị đối với trật tự quốc tế. Sự bùng nổ năng lượng tại Mỹ và Canada – nếu tận dụng triệt để – có khả năng thay đổi động lực sức mạnh giữa các cường quốc và vực dậy những liên minh của Mỹ. Điều này có thể khiến người chiến thắng hôm qua trở thành kẻ thua cuộc ngày mai. Giống như một Trung Đông “già cỗi” đang “hướng Đông” để thúc đẩy quan hệ năng lượng với Trung Quốc và Ấn Độ, một “Trung Đông mới” (bao gồm Canada và Mỹ) có thể đang “hướng Tây” để bán dầu – khí trong đá rắn cho Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, và các nước Đông Nam Á. Dầu – khí trong đá phiến sẽ không chỉ tăng cường đòn bẩy ngoại giao của Mỹ, mà còn làm thị trường dầu mỏ thế giới đa dạng, giúp bình ổn giá dầu, đồng thời các nước tiêu thụ sẽ giảm bớt sự phụ thuộc quá mức vào một Trung Đông biến động, các cacten OPEC, và nước Nga của ông Putin.

Tương lai Địa chính trị Châu Á

Những xu hướng chiến lược này sẽ định hình tương lai địa chính trị Châu Á, đặc biệt là tác động qua lại giữa Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản và Ấn Độ. Sự bất cân bằng sức mạnh giữa các cường quốc dẫn đến việc mỗi bên sẽ thiết lập các liên kết linh hoạt, tạm thời với những bên khác khi lợi ích của họ có điểm đồng; tận dụng sự ủng hộ của một bên để chống lại bên khác khi có xung đột quyền lợi; ngăn chặn hai bên khác hình thành liên minh chống lại mình bởi các nước có xu hướng cạnh tranh, liên minh và liên kết lại khi mục tiêu song trùng.

Dĩ nhiên, Trung Quốc là mảnh ghép quan trọng nhất trong bức tranh địa chính trị này. Không quốc gia nào có thể đe dọa Trung Quốc khi nước này hiện nay đã lớn mạnh. Là quốc gia lớn nhất (về mặt lãnh thổ) và hùng mạnh nhất (về mặt kinh tế và quân sự) ở Châu Á, chỉ khi Bắc Kinh dừng lại và chấp nhận duy trì nguyên trạng lãnh thổ trên bộ và cũng như trên biển thì nước này mới có thể hóa giải được các liên minh của Mỹ thời kỳ Chiến tranh Lạnh và giảm bớt lý do nước này hiện diện tại khu vực. Nhưng chúng ta không nên tin vào khả năng này: Một chiến lược gia Trung Quốc (cơ bản nhắc lại lời Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc) từng nói: “Từ bỏ yêu sách đối với ‘các vùng đất bị mất vào tay nước khác’…là điều khó tin và không thể xảy ra.”

Do quân đội nhân dân Trung Quốc sẽ không chấp nhận duy trì nguyên trạng lãnh thổ hiện nay, câu hỏi đặt ra cho Mỹ và các đồng minh là cách thức duy trì cán cân quyền lực đủ mạnh nhằm ngăn chặn bất kỳ hành động hăm dọa và xâm lấn, đồng thời trấn an bạn bè và đồng minh đang phải đối mặt với một Trung Quốc đầy tự tin với quyết tâm thiết lập vị thế thống trị trên lục địa Châu Á và các vùng biển liền kề. Hòa bình và ổn định sẽ được duy trì nếu các cường quốc hướng tới xây dựng một Châu Á đa cực với các tổ chức đa phương toàn diện cùng các cơ chế giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, sự ganh đua, cạnh tranh và thậm chí là xung đột có thể dẫn đến trật tự lưỡng cực hoặc việc Bắc Kinh tìm cách thiết lập lại trật tự đơn cực mà nước này ở vị trí trung tâm, theo đó Trung Quốc sẽ hành xử như một bá quyền và đòi hỏi sự quy thuận, triều cống từ các nước láng giềng.

Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, không điều gì là chắc chắn trong cuộc sống cũng như vũ đài chính trị – trong nước hay quốc tế. Tương lai không phải là một đường thẳng. Nó đầy rẫy những bước ngoặt, vấp ngã, thất bại, điều bất ngờ và sự trái ngược, không liên tục và phi tuyến tính. Liên Xô và Nhật Bản chính là những ví dụ cho thấy việc Trung Quốc trỗi dậy không có gì là chắc chắn.

Trong lịch sử, các cường quốc trỗi dậy, kỳ vọng quá nhiều quá sớm, thường bộc lộ sức mạnh một cách khác thường, và đây là kẻ thù nguy hiểm nhất của chính những nước này. Khác những gì sách giáo khoa Quan hệ Quốc tế dạy chúng ta, chính sách đối ngoại của một quốc gia không chỉ là những tính toán về sự được mất hoặc câu chuyện thiệt hơn. Đó là tổng hòa của năm yếu tố: Khát vọng, sức mạnh, lợi ích, kiêu hãnh và định kiến. Điều này khiến việc dự đoán tương lai của Trung Quốc hay tương lai chính trị thế giới trở nên hết sức khó khăn.

Nguy cơ của những tính toán sai lầm nằm ở chỗ: Quân đội Trung Quốc đánh giá quá cao sức mạnh của mình, trong khi phần còn lại của thế giới đánh giá quá thấp tham vọng, sức mạnh cũng như mục đích của Bắc Kinh.

Mohan Malik là Giáo sư chuyên về An ninh Châu Á tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á-Thái Bình Dương ở Honolulu. Ông là chủ biên của cuốn An ninh Biển ở Ấn Độ-Thái Bình Dương (Rowman & Littlefield, sẽ xuất bản tháng 10 năm 2014) và tác giả cuốn sách Trung Quốc và Ấn Độ: Cuộc đối đầu của Hai Cường quốc (Nhà xuất bản Lynne Rienner, 2011). Bài viết đăng trên trang “The Diplomat“.

Nguồn: Nghiên cứu Biển Đông