Chuyển động quốc phòng Châu Á – Thái Bình Dương (02/04/2015)

lead_large

Tác giả: Nguyễn Thế Phương

Vấn đề “liên minh” đối với Việt Nam hiện nay là một đề tài mang tính chiến lược rất lớn, gây ra nhiều tranh luận. Trong phiên bảo vệ tại buổi Tổng kết giải thưởng Nghiên cứu Biển Đông do Quỹ hỗ trợ Nghiên cứu biển Đông (Viện Biển Đông, Bộ Ngoại giao) tổ chức vừa qua ở Hà Nội, Tiến sỹ Trương Minh Huy Vũ và cộng sự (Khoa Quan hệ Quốc tế – Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM) đã trình bày một đề tài đáng chú ý liên quan đến “chính sách hợp tác mới” của Việt Nam.

Chính sách “ba không” (không liên minh; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam; không cho phép một nước sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác) vốn là kim chỉ nam trong đường lối đối ngoại quốc phòng của đất nước kể từ sau Chiến tranh Lạnh. Tuy nhiên, trong bối cảnh Trung Quốc đang ngày càng có nhiều hành động hung hăng ở biển Đông, cùng với đó là sự chênh lệch cán cân sức mạnh rất lớn giữa hai quốc gia, liệu đã đến lúc nên xem xét lại chính sách “ba không”? Cuộc tranh luận này vẫn đang diễn ra gay gắt, và mỗi phe ủng hộ và phản đối đều có luận điểm của riêng mình. Kết quả thì vẫn là bế tắc, ít nhất là về mặt học thuật. Như Tiến sỹ Hoàng Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược trong phiên phản biện đã có nhắc nhở: “Đưa ra thảo luận để thay đổi một chính sách đã có là khó hơn rất nhiều so với việc đưa ra thảo luận một chính sách hoàn toàn mới”.

Tiến sỹ Huy Vũ đã nêu lên một ý quan trọng: vai trò ngày càng lớn của các tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt trong lĩnh vực quốc phòng. Đây cũng là một tổn thương chiến lược của Trung Quốc nếu so sánh trong tương quan quyền lực với Hoa Kỳ tại khu vực Tây Thái Bình Dương (hai tổn thương khác chính là chênh lệch sức mạnh tương đối và hệ thống đồng minh). Và đây cũng chính là điểm mà Việt Nam có thể hợp tác và thiết lập một dạng “liên kết” với Hoa Kỳ.

Ông Vũ đề xuất ý kiến này từ khái niệm “All Domain Access” (tạm dịch là “Tiếp cận toàn diện”) vừa mới được Liên minh các lực lượng biển Hoa Kỳ công bố vào tháng 3 vừa qua, và là một trong những nhiệm vụ chính mà các lực lượng này phải hoàn thành. “Tiếp cận toàn diện” nhấn mạnh đến khả năng bao quát được toàn bộ các chiến trường; đảm bảo tốt chỉ huy và kiểm soát (command and control); đảm bảo an toàn tác chiến mạng và công nghệ thông tin; tác chiến điện từ (electromagnetic maneuver warfare – AMW); và cuối cùng là kỹ năng phối hợp hoả lực (integrated fires). Tất cả những đặc điểm này đều được sự trợ giúp và cộng hưởng từ các loại trang thiết bị vũ khí tối tân, cũng như hệ thống hạ tầng mạng hiện đại. “Tiếp cận toàn diện” cũng đề cập tới sự phối hợp giữa Hoa Kỳ và đồng minh cũng như các đối tác khác như là một điều kiện tiên quyết đảm bảo cho sự thành công của nhiệm vụ này.

Đây là yếu tố mới, và là yếu tố phù hợp mà Tiến sỹ Huy Vũ cho rằng Việt Nam có thể chủ động đóng một vai trò quan trọng. Ở đây, Việt Nam có khả năng liên kết theo kiểu mạng lưới với hệ thống thông tin hạ tầng mạng và tác chiến điện tử hiện đại của Hoa Kỳ. Tận dụng mạng lưới công nghệ này sẽ giúp chúng ta vừa có thể gia tăng hợp tác với Washington, lại không ảnh hưởng tới chính sách “ba không” hiện tại. Gắn kết một phần chiến lược quốc phòng của Việt Nam trong tương lai với “tiếp cận toàn diện” của Hoa Kỳ có thể là một sự lựa chọn khả dĩ, và là hướng đi ngách giúp đất nước tăng cường hơn nữa khả năng răn đe và kiểm soát ở biển Đông.

Vậy xu hướng công nghệ quân sự tương lai là gì? Và Hoa Kỳ đã và đang tiến hành nghiên cứu những dự án nào để có thể duy trì ưu thế quân sự vượt trội của mình trên toàn cầu? Vừa qua, Cơ quan Nghiên cứu Quân sự tiên tiến (DARPA) của Hoa Kỳ đã công bố báo cáo Các công nghệ đột phá trong an ninh quốc gia nhằm liệt kê các dự án công nghệ quốc phòng tương lai mà cơ quan này đang đầu tư nghiên cứu. Những dự án có thể kể tới bao gồm:

  • “The Upward Falling Payloads” program: dự án này có tham vọng chế tạo các “kén rô-bốt” (robod pods) và đặt chúng dưới đáy biển, có thể trong nhiều năm liền. Một khi được kích hoạt, các “kén” này sẽ nổi lên mặt nước và thả các loại máy bay không người lái (UAVs) hay tàu ngầm không người lái (UUVs) để thực hiện các nhiệm vụ ISR (tình báo – intelligence; giám sát – surveillance và trinh sát – reconnaissance), tác chiến điện tử…Trong tương lai, các loại “kén” này hoàn toàn có thể thay thế tàu ngầm.
  • The “Distributed Agile Sumarine Hunting” program, hay còn gọi là DASH và “Transformational Reliable Acoustic Path System” program hay còn gọi là TRAPS chế tạo nên những thiết bị cảm biến và phát hiện mục tiêu dưới đáy biển. Chúng sẽ hiệu quả hơn, nhỏ nhẹ hơn với các tính năng kỹ chiến thuật mạnh mẽ hơn.
  • Trong tương lai, quân đội Hoa Kỳ có thể sẽ không còn định vị bằng hệ thống GPS nữa. DARPA đang nghiên cứu chế tạo một phương thức định vị mới mà không cần dựa vào các hệ thống vệ tinh đắt đỏ. Vai trò của không gian hiện nay là rất quan trọng trong việc thiết lập chiến lược và chiến thuật quân sự. Dự án ALASA có tham vọng phóng 100 vệ tinh nặng 100 pound lên quỹ đạo trong vòng 24 giờ với chi phí chỉ khoảng 1 triệu USD. Bên cạnh đó là dự án RSGS chế tạo các loại rô-bốt có thể sửa chữa các vệ tinh bị hư hỏng ngay trên không gian vũ trụ.

Tổng ngân sách của DARPA vào khoảng 3 tỷ USD, biến cơ quan này thành cơ quan phát triển công nghệ hàng đầu của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ.

Nhật Bản vừa chính thức hạ thuỷ tàu chiến lớn nhất của nước này kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Tàu chở trực thăng IS Izumo, nặng khoảng 24.000 tấn, là một phần của Lực lượng phòng vệ biển Nhật Bản, được phát lệnh hạ thuỷ bởi Bộ trưởng Quốc phòng Nakatani tại Yokohama vừa qua. Izumo thích hợp cho các nhiệm vụ chống ngầm, và sẽ hoạt động tại khu vực nhiều điểm nóng tại Hoa Đông. Các máy bay hiện đại có thể cất hạ cạnh thẳng đúng MV-22 Osprey sẽ được biên chế trên Izumo, và về mặt lý thuyết, là các máy bay tàng hình F-35. Đây là yếu tố khiến cho Izumo tiệm cận gần hơn, về mặt kỹ thuật, tới một tàu sân bay truyền thống, điều mà Trung Quốc luôn nhấn mạnh và lo ngại.

Bên cạnh đó, Học viện Hải quân Hoa Kỳ vừa qua cũng đã tiết lộ một thiết kế tàu ngầm hạt nhân mới của Trung Quốc. Thiết kế này độc đáo ở chỗ nó có một khoang riêng có thể chứa một tàu ngầm con có thể được các lực lượng đặc biệt sử dụng.