Tác giả: Huỳnh Phan & Lan Anh (phỏng vấn)
Trong hồi ức của PGS. TS Vũ Dương Huân, “suốt một thời gian dài chúng ta bị ý thức hệ chen vào. Chúng ta không dám thừa nhận lợi ích quốc gia dân tộc là nguyên tắc, là mục tiêu cao nhất của chính sách đối ngoại vì sẽ ngược với lợi ích quốc tế, lợi ích của giai cấp công nhân”.
LTS:Nhìn lại hành trình sau 30 năm ĐỔI MỚI đất nước, sẽ là thiếu sót nếu chúng ta không thấy được những đóng góp của ngành ngoại giao Việt Nam. Trong sự phát triển chung của đất nước, công tác đối ngoại đã có những đóng góp lớn, tham mưu cho Đảng, Nhà nước chuyển từ thế bị bao vây, cấm vận sang bình thường hóa quan hệ với các nước; Thiết lập quan hệ với 185 nước trong tổng số 193 nước của Liên Hợp Quốc và tham gia vào 70 tổ chức quốc tế, khu vực và đóng vai trò tích cực chủ động và có trách nhiệm; Tiếng nói của Việt Nam trên trường quốc tế được các nước trong khu vực và quốc tế tôn trọng, nhiều sáng kiến của chúng ta được cộng đồng quốc tế hoan nghênh.
Tiếp chuyên đề nhìn lại 30 năm ĐỔI MỚI, Tuần Việt Nam xin giới thiệu cuộc trò chuyện của chúng tôi với ông Vũ Dương Huân với tư cách là một Nhà Sử học. Ông Huân nguyên là Giám đốc Học viện Ngoại giao Việt Nam, nguyên Trưởng ban Nghiên cứu lịch sử Ngoại giao, Cựu đại sứ Việt Nam tại Ba Lan và Ucraina.
Những bài học do chuyển biến chậm
Nhìn lại 30 năm đổi mới dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam, theo ông, những đổi mới nào là quan trọng nhất, tác động lớn đến đường lối đối ngoại của đất nước ta?
Ông Vũ Dương Huân: Đổi mới nhận thức về tư duy, trước hết là đổi mới nhận thức thời đại mới về khu vực ngày càng rõ hơn và đầy đủ hơn.
Về thế giới: Nếu như trước kia chúng ta xác định hai phe, bốn mâu thuẫn theo tinh thần văn kiện các Hội nghị các Đảng cộng sản và công nhân năm 1957 và 1960 là đúng, thì suốt từ giai đoạn dài đến tận Đại hội Đảng VII (1991) vẫn xác định như vậy. Chúng ta cho rằng thời đại của Cách mạng Tháng Mười mở ra là giai đoạn quá độ từ CNTB lên CNXH, song chúng ta nhân thức rõ hơn tính chất phức tạp của quá trình chuyển biến xã hội, chú ý đến đăc trưng, xu hướng và tính chất giai đoạn hiên nay của thời đại.Tuy nhiên, nhận thức đã được đổi mới từ Đại hội VII, chứ không trần xì là hai phe, bốn mâu thuẫn như cái thời 1957 – 1960 nữa.
Về tư duy mục tiêu nhiệm vụ, chính sách đối ngoại, chúng ta cũng đặt ra rất rõ ràng. Đặc biệt là vấn đề lợi ích quốc gia, dân tộc là tối thượng. Tại Đại hội Đảng XI chúng ta đã khẳng định điều đó một cách rõ rằng trong đường lối chính sách đối ngoại. Nhưng hãy nhớ, từ năm 1964, khi phát biểu tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ ba, Bác Hồ đã nói: làm cái gì cũng phải vì lợi ích dân tộc. Bác không nói “chính lợi ích quốc gia dân tộc là nguyên tắc cao nhất, là mục tiêu của chính sách đối ngoại”, nhưng giới nghiên cứu chúng tôi ai cũng hiểu Bác hàm ý như vậy.
Suốt một thời gian dài chúng ta bị ảnh hưởng của ý thức hệ. Trong bối cảnh thế giới chia làm hai phe, mà chúng ta thuộc phe XHCN, thì khó có thể làm khác được. Đến tận Hội nghị Trung ương III của khóa VII (tháng 6/1992) chúng ta nêu bốn phương châm thì phương châm thứ nhất đáng ra phải coi lợi ích quốc gia dân tộc là mục tiêu là nguyên tắc thì ta lại nói chung chung là “kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân”.
Vai trò đối ngoại đối với bảo vệ Tổ Quốc cũng đã hiện thân rõ hơn tại Nghị quyết Bộ Chính trị XIII (5/1988). Ông Nguyễn Cơ Thạch chính là người đã nêu ý tưởng: Phải cân đối giữa chi tiêu cho quốc phòng và các khoản chi tiêu phát triển khác. Trong Nghị quyết 13 đưa ra chủ trương quốc phòng là vừa đủ, kinh tế phải phát triển và yếu tố cực kì quan trọng là phải có quan hệ ngoại giao cực kì rộng rãi, là nhân tố bảo vệ độc lập chủ quyền, bảo vệ Tổ quốc.
Chúng tôi nghe nói rằng Bộ Quốc phòng hồi đó đã quyết định giảm bớt quân số đi?
Ông Vũ Dương Huân: Đúng. Nhưng quyết định đó là để thực thi Nghị quyết 13.
Trong Nghị quyết 13 cũng nhấn mạnh được cái nhiệm vụ trọng tâm của chúng ta chính là giữ vững hòa bình để phát triển đất nước. Nghị quyết 13 còn nêu rõ vấn đề trọng tâm để tháo gỡ và thúc đẩy đối ngoại đi lên chính là vấn đề giải quyết vấn đề Campuchia và bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Chính vì vậy người ta gọi Nghị quyết 13 là điểm đột phá trong chính sách đối ngoại.
Trong Nghị quyết 13, chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa mới đề cập một cách mờ nhạt, nhưng thực chất đây là khởi đầu cho chính sách quan trọng này khi sang tới Đại hội VII.
Đến Đại hội VII, chủ trương này được khái quát thành chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ, trên cơ sở độc lập tự chủ. Đấy là chuyển hướng lớn của toàn Đảng, toàn dân, nhưng đóng góp lớn nhất là của Bộ Ngoại giao, đứng đầu là Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch.
Nắm vững thông lệ quan hệ quốc tế cũng là nhận thức lớn về đối ngoại. Đường lối chủ trương chính sách đối ngoại của chúng ta từng theo con đường nhận thức vồ vập, neo kẹt trong hòn đá tảng. Cuối năm 1991, chúng ta đã nhận thức dần dần, chuyển sang sang đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Nghị quyết Trung ương 3 năm 1992 đã nêu rõ điều đó.
Đừng để bị đá ra ngoài rìa
Ông được coi là một trong những nhân chứng của một giai đoạn quan trọng trong hành trình phát triển của dân tộc, theo ông trong đường lối đối ngoại, các bước nhận thức về thế giới và cách thích nghi của Việt Nam chúng ta đã diễn ra như thế nào?
Ông Vũ Dương Huân: Đại hội VII nêu chủ trương “muốn là bạn”, Đại hội VIII nói rằng “sẵn sàng là bạn”, đến Đại hội X chúng ta nói là “đối tác”, và đến Đại hội XI thì xác định “là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”.
Đổi mới để nhận thức hợp tác và đấu tranh trong quan hệ “địch – ta” cũng chuyển từ đối tác – đối tượng, một cách dần dần, lần đầu tiên tại Hội nghị Trung ương 8, khóa IX (2003) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc.
Ví dụ, có những nươc đươc coi là đối tượng, nhưng hợp tác lại rất nhiều đặc biệt là kinh tế-thương mại. Có những nước là đồng minh theo ý thức hệ, nhưng là đối tượng nhiều nhất tác động đến độc lập chủ quyền của Việt Nam. Sau này chúng ta mới tìm ra được công thức rành mạch rõ ràng và dễ xử lí các đối tác – đối tượng: Anh nào là đối tượng là anh ấy vi phạm, gây tác động xấu đến độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của chúng ta, còn anh nào là đối tác tức là thúc đẩy quan hệ hợp tác.
Từ phá thế bao vây cấm vận chúng ta chuyển sang giai đoạn hội nhập với khu vực và toàn thế giới. Hội nhập quốc tế dần dần trở thành chính sách đối ngoại lớn của Việt Nam. Tôi nhớ tại Đại hội IX, đây là vấn đề cực kì gây tranh luận, vì mọi người phản đối hội nhập, cho rằng hội nhập là sẽ chết, trong khi đó có những người khẳng định ắt phải hội nhập, không hội nhập sẽ chết.
Ông Nguyễn Chí Trung, Trợ lý Tổng bí thư đã phát biểu trên hội trường Bộ Ngoại giao, nhấn mạnh hội nhập vừa đem lại cái lợi, đồng thời cái tiêu cực cũng ngang nhau. Song, hội nhập là tính quy luật và “nếu không xông vào thì anh sẽ bị đá ra ngoài rìa”.
Đại hội IX đã nhấn mạnh về hội nhập kinh tế. Đại hội XI (2011), các đại biểu nâng tầm lên hội nhập toàn diện, tức là ngoài hội nhập về kinh tế còn hội nhập về chính trị, an ninh, quốc phòng, văn hóa, xã hội. Quan điểm đó rất đúng, nhưng trên thực tế việc gia nhập ASEAN vào năm 1995 thì rõ là chúng ta đã hội nhập toàn diện rồi đấy. Việc ký Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ hồi năm 2000 cũng là minh chứng chúng ta hội nhập toàn diện, chứ không chỉ ở khía cạnh kinh tế.
Nội bộ lùng bùng làm lỡ cơ hội
Nếu nhìn lại một cách bình tĩnh, những thành tựu nổi bật mà ngành Ngoại giao được hưởng từ luồng gió ĐỔI MỚI trong 30 qua là gì, thưa ông?
Ông Vũ Dương Huân: 1. Từ khi Mỹ, ASEAN và các nước khác dần dần bỏ bao vây cấm vận đối với nước ta.
2. Cho đến bây giờ Việt Nam có quan hệ song phương với 186 nước, trong số 193 nước thành viên của Liên Hiệp Quốc. Hay về tổ chức quốc tế, lúc đầu Việt Nam tham gia chỉ có SEV (Hội đồng Tương trợ Kinh tế của các nước XHCN), năm 1976 Việt Nam kế tục qui chế hội viên tại IMF, vậy mà đến thời điểm này Việt Nam là thành viên của hơn 70 tổ chức quốc tế lớn ở khu vực và trên thế giới. Về thị trường làm ăn, chúng ta từ thế bị cấm vận nay đã có quan hệ với hơn 220 thị trường.
3. Đã tạo môi trường quốc tế hòa bình, ổn định để xây dựng phát triển đất nước, và bảo vệ vững chắc nhiệm vụ trọng tâm là bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước.
4. Nâng được vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Ví dụ, Việt Nam được bầu vào Hội đồng Bảo an ( thành viên không thường trực) của LHQ, và xử lí rất nhiều vấn đề phức tạp trong 2008-2009 đã nâng vị thế mình lên.
Việt Nam còn tham gia các tổ chức quốc tế, cơ chế đa phương khác như: ASEAN, chủ trì Hội nghị Cấp cao ASEAN 1998, Chủ tịch ASEAN2010, rồi có Tổng Thư ký ASEAN. Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị thượng đỉnh APEC 2006, và sắp tới là APEC 2017. Hay Việt Nam được bầu vào Hội đồng Chấp hành UNESCO, Tổ chức Năng lượng Quốc tế, Ủy ban Nhân quyền LHQ, hay Hội đồng Kinh tế Châu Á – TBD….
Bên cạnh những thành tựu to lớn như vậy, liệu trong 30 năm ĐỔI MỚI ngành đối ngoại có khi nào gặp phải những hạn chế khiến chúng ta bị lỡ bước đi, hoặc đi quá chậm?
Ông Vũ Dương Huân: Thứ nhất, lúc đầu có nhiều vấn đề mình chưa nhận thức ra. Ví dụ, nhận thức giữa lợi ích quốc gia dân tộc và ý thức hệ lùng bùng đến Đại hội XI mới khẳng định được rằng, lợi ích quốc gia dân tộc vừa là mục tiêu vừa là nguyên tắc.
Thứ hai, nhận thức giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế cũng bị lùng bùng. Chính Bác Hồ đã nói từ lâu rồi là anh muốn hội nhập thành công, muốn chính sách đối ngoại thành công thì cái gốc vẫn là trong nước, là nội lực. Tức là trong đó nếu chưa chuẩn bị tốt trong nước thì hội nhập sẽ chưa hiệu quả.
Ví dụ, Hiệp định TTP mình ký tháng Hai vừa rồi, và bây giờ là quá trình phê duyệt văn kiện, mà nhiều doanh nghiệp cũng chưa nắm được, dân cũng chưa nắm được.
Thứ ba, sự phối hợp giữa các bộ ban ngành, đị phương chưa thật tốt. Bây giờ ngoại giao không chỉ là ngoại giao nhà nước, ngoại giao Đảng, mà còn có ngoại giao quốc hội, ngoại giao nhân dân. Ngoài ngoại giao nhà nước cấp trung ương, còn có ngoại giao của các địa phương, doanh nghiệp, sự phối hợp chưa được ăn ý. Nhiều trường hợp đi nước ngoài chưa đặt cao nhiệm vụ học tập kinh nghiệm.
Thời tôi làm Đại sứ ở Ba Lan và Ucraina, tôi chứng kiến rất nhiều đoàn sang, nhất là dịp cuối năm; Nhiều đoàn đi chồng chéo cũng không có hiệu quả cao, vì giữa các đoàn không có trao đổi lẫn nhau về những kinh nghiệm học được.
Thứ tư, có lúc chúng ta lúng túng trong nội bộ. Ví dụ, BTA Việt –Mỹ đáng nhẽ phải ký sớm hơn, nhưng do nội bộ chưa thống nhất nên lùi lại đến 2000, làm chậm khả năng Việt Nam đàm phán gia nhập WTO, và phải chịu giá cao hơn gấp bội thì ai cũng thấy rồi.
“Thực tiễn sẽ trả lời”
Tại Hội nghị Trung ương 3 của Đại hội VII được coi là bước ngoặt lịch sử đối với đối ngoại Việt Nam, đối với chủ trương đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ. Ông còn nhớ, hồi đó, để đạt được bước ngoặt này thì các vị đứng đầu ngành ngoại giao, đặc biệt là Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã làm những gì để thuyết phục được những người luôn đề cao, coi trọng quan hệ với các nước XHCN và phong trào công nhân trên thế giới?
Ông Vũ Dương Huân: Trong một quốc gia, việc có những ý kiến khác nhau là chuyện bình thường. Trong thời ông Nguyễn Cơ Thạch là Bộ trưởng, nhất là giai đoạn liên quan đến Đại hội VI và Đại hội VII cũng có những vấn đề thuộc về ý thức hệ nổi lên, và gây ra tranh luận mạnh mẽ.
Việt Nam đã bắt đầu chuyển biến từ Đại hội VI, chính xác hơn là Nghị quyết 32 của BCT (7/1986), trước Đại hội VI mặc dù lúc đấy đối ngoại chưa được quan tâm nhiều. Lúc đó, trọng tâm là đổi mới về kinh tế, nhất là tư duy kinh tế.Nhưng mà đối ngoại và đối nội là những vấn đề luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, nếu không có đổi mới về đối nội thì không thể đổi mới đối ngoại.
Tại Đại hội VI đã đưa ra những tư tưởng lớn về đối ngoại, tuy chưa bàn cụ thể. Chẳng hạn là các tư tưởng “Kết hợp sức mạnh; Thêm bạn bớt thù; Kết hợp sức mạnh với giữ vững hòa bình ở Đông Nam Á và Đông Dương…” Hay “chuyển đấu tranh sang cùng tồn tại hòa bình”… Nội bộ ta khi đó như tôi đã nói ở trên là vẫn còn nhiều khác nhau về ý kiến.
Nhưng vẫn còn có sự ủng hộ đối với yếu tố ý thức hệ trong đối ngoại.Nhân đây, tôi xin kể một ví dụ về ngoại giao ý thức hệ. Năm 1989 là năm kỷ niệm 40 năm của Cộng hòa Dân chủ Đức, và họ mời tất cả các lãnh đạo Đảng anh em sang tham dự. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đến dự với mục đích, ngoài dự lễ kỷ niệm, là thông báo với các Đảng Cộng sản khác về sáng kiến của Đảng Cộng sản Việt Nam đăng cai tổ chức một cuộc họp bàn để phối hợp các Đảng Cộng sản nhằm cứu CNXH, vì lúc đó CNXH đang lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng ở Đông Âu và Liên Xô. Ông Linh đã thành công với một số Đảng Cộng sản như Romania, Mông Cổ, Cu Ba, hay Tây Đức, nhưng lại không được Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Gorbachev ủng hộ do nội bộ Liên Xô lúc bấy giờ đang có nhiều thay đổi lớn.
Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch là người tích cực thúc đẩy đa dạng hóa, đa phương hóa vì lợi ích dân tộc. Bộ trưởng Thạch đã xây dựng một đội ngũ nghiên cứu đã kịp nhìn ra xu thế phát triển của thế giới, nhận thấy giờ không thể đi theo lối tư duy xáo cũ được nữa, mà phải đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ, phải chú trọng phát triển kinh tế, chú trọng những vấn đề khác để mà thúc đẩy sự phát triển đất nước, và phải giải quyết vấn đề Campuchia.
Đáng mừng là Đại hội VII, xu hướng ủng hộ đổi mới đã manh nha thắng thế mặc dù không hoàn toàn. Trong Nghị quyết Đại hội VII vẫn còn thấp thoáng tư tưởng ngoại giao ý thức hệ lẫn vào chính sách đa phương hóa quan hệ.
Tôi từng nghe trực tiếp ông Thạch nói rằng, đại ý “Thực tiễn sẽ trả lời”. Tôi vẫn nhớ rất rõ, bản tham luận tại Đại hội VII của ông Thạch rất hay. Ông ấy đã đánh giá về xu hướng phát triển của thế giới, cách mạng khoa học công nghệ, của toàn cầu hóa, xu hướng liên kết kinh tế nhau, và quả quyết Việt Nam không thể đi theo ngoại giao ý thức hệ được, bởi thực tế ở Đông Âu lúc đó là những minh chứng rõ ràng.
Những cơ hội bị bõ lỡ
Nhân ông đang nói về chuyện cũ, chúng tôi xin hỏi một câu chuyện từng nghe phong thanh đâu đó. Có phải đã có những ý kiến khuyên Việt Nam nên bình thường hóa quan hệ với ASEAN và Mỹ, đặc biệt là ASEAN trước khi bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc?
Ông Vũ Dương Huân: Đúng là có ý kiến đó. Đáng nhẽ ra trong bối cảnh như thế, Việt Nam cần nhanh chóng đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ, và điều thúc đẩy đầu tiên chính là cái tăng cường quan hệ với ASEAN và gia nhập ASEAN, vì ASEAN là các nước láng giềng quanh ta.
Tại sao lại khuyên bình thường hóa quan hệ với Mỹ trước là bởi Mỹ là siêu cường, có thể chi phối các mối quan hệ quốc tế. Hơn nữa, trong bối cảnh quan hệ Trung Quốc cực kỳ khó khăn, và Trung Quốc không muốn bình thường hóa quan hệ sớm, họ đã dùng vấn đề Campuchia để ngăn chặn Việt Nam.
Nếu như Việt Nam bình thường hóa quan hệ với ASEAN, chắc chắn mối quan hệ với Trung Quốc sẽ không phức tạp như sau này. Vì, quan hệ quốc tế là những vấn đề dằng díu với nhau. Quan hệ với ASEAN sẽ thúc đẩy việc bình thường hóa với Trung Quốc.
Thật đáng tiếc, cả hai cái việc đó mình đều đã bỏ lỡ.
Hồi đó chúng ta đã có cơ hội tốt để có thể chớp lấy cả 2 cơ hội này phải không ạ?
Ông Vũ Dương Huân: Hồi cuối thập niên 1970, Mỹ đánh tiếng sẵn sàng bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Nhưng phía ta đã kiên quyết đòi Mỹ phải bồi thường chiến tranh 3,25 tỷ USD, ghi trong Công hàm của Tổng thống Nich Xơn gửi Thủ tướng Phạm Văn Đồng, như một điều kiện tiên quyết để bình thường hóa. Sau này Nixon bảo không làm được vì quyết định về tài chính thuộc về Quốc hội.Đặc biệt, trong bối cảnh hội chứng chiến tranh Việt Nam còn sâu nặng, Quốc hội làm sao mà chi. Việt Nam đã không tìm hiểu thấu đáo hệ thống chính trị Mỹ.
Đến tận 4/1978, Việt Nam mới chấp nhận bỏ không đòi bồi thường chiến tranh, thì Mỹ đang chuẩn bị bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, cộng thêm chuyện ta đưa quân vào Campuchia và điều thứ ba quan trọng nhất là Việt Nam đã ký Hiệp ước Hữu nghị Xô – Việt, trong đó có Điều 6 về phối hợp hợp tác về quân sự.
Còn đối với ASEAN, cơ hội để bình thường hóa quan hệ với ASEAN là có.05/07/1976 Việt Nam đưa ra chính sách 4 điểm được các nước ASEAN rất hoan nghênh. Nhưng tại điểm thứ 4, ta lại kèm theo cái đuôi là tăng cường hợp tác với khu vực ASEAN để khu vực này có hòa bình trung lập thực sự. Vì thế một số nước ASEAN cho rằng mình muốn kêu gọi nhân dân lật đổ chính phủ họ. Hãy nhớ, lúc này các nước ASEAN đều phụ thuộc ở các mức độ khác nhau vào Mỹ. Khi Việt Nam đưa quân vào Campuchia, lực lượng các nước xung quanh đã về hùa với Trung Quốc và phương Tây bao vây cấm vận Việt Nam.
Cho rằng Nguyễn Cơ Thạch chống Trung Quốc là sai lầm
Theo chúng tôi được biết, trong tiến tới bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, kênh ngoại giao Đảng với kênh ngoại giao Quốc phòng đã đóng vai trò hết sức quan trọng. Tại sao lại có hiện tượng như thế và bài học cho hậu thế rút ra là gì?
Ông Vũ Dương Huân: Qua một số hồi ký, chúng ta được biết là Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh, Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy đã tổ chức gặp Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh tại Hà Nội. Tại đó ông Linh bàn với Trương Đức Duy về kế hoạch đi thăm Trung Quốc, và dẫn đến Hội nghị Thành Đô.
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh là người coi trọng ý thức hệ, đặc biệt trong quan hệ giữa các nước XHCN và trong quan hệ giữa các Đảng Cộng sản. Ông Linh tin rằng ý thức hệ là con đường quan trọng, có thể hóa giải các mối quan hệ đối ngoại căng thằng, phức tạp. Ông ấy đã có niềm tin kiên định như vậy.
Trong nhiệm kỳ Tổng Bí thư của mình, ông Nguyễn Văn Linh đã rất nỗ lực tạo dấu ấn lịch sử bằng việc bình thường hóa với Trung Quốc.
Chúng tôi không hiểu, tại sao qua kênh ngoại giao Nhà nước lại lâu bình thường hóa hơn? Chúng tôi từng nghe kể Nghị quyết XIII của Bộ Chính trị, do ông Thạch góp sức chủ yếu, có yêu cầu bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc?
Ông Vũ Dương Huân: Tôi đươc biết Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch là người rất coi trọng nhân tố Trung Quốc, luôn mong muốn sớm bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc.
Ví dụ, liên quan đến việc góp ý vào Dự thảo Hiến pháp 1980, chính nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên, tại Hội nghị Tổng kết Đối ngoại giai đoạn 1975-1995 vào năm 2007, đã kể lại rằng, Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã giao cho ông Niên chuyển bản góp ý của Bộ Ngoại giao tới các ông Lê Duẩn và ông Lê Đức Thọ. Theo quan điểm của Bộ Ngoại giao, trong Lời Nói Đầu của Dự thảo Hiến pháp 1980 không nên đưa câu “Trung Quốc là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm”.
Khoảng 2-3 tháng trước Đại hội VII (6/1991) có rộ lên tin tức là Trung Quốc đang tìm cách hạ bệ ông Thạch vì ông chống Trung Quốc. Nhưng thực tế là ông chủ trì Nghị quyết XIII, mà một trong những nội dung quan trọng là giải quyết vấn đề Campuchia và bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Để nói về giai đoạn lịch sử này, chúng ta cũng có thể dùng câu nói của ông là “thực tiễn sẽ trả lời.”
Đại sứ Trung Quốc Lý Gia Trung, một người biết tiếng Việt rất giỏi, đã nói rằng, quan điểm cho rằng ông Thạch chống Trung Quốc là “hoàn toàn sai lầm”.
Xin cảm ơn ông Vũ Dương Huân đã dành thời gian cho Tuần Việt Nam!
Nguồn: Tuần Việt Nam
[efb_likebox fanpage_url=”DAnghiencuuquocte” box_width=”420″ box_height=”” locale=”en_US” responsive=”0″ show_faces=”1″ show_stream=”0″ hide_cover=”0″ small_header=”0″ hide_cta=”0″ ]