Nguồn: Artyom Lukin, “Will a Russian naval base appear in the South China Sea?”, East Asia Forum, 02/11/2016.
Biên dịch: Đào Duy Tùng | Biên tập: Lê Hồng Hiệp
Bộ Quốc phòng Nga vừa thông báo rằng Moskva đang cân nhắc mở lại các căn cứ quân sự thời Xô-viết ở Việt Nam và Cuba. Các cuộc thảo luận cũng đã bắt đầu tại Moskva về việc đàm phám với Ai Cập để thuê các cơ sở quân sự cho lực lượng Không quân và Hải quân Nga. Nga hiện tại đang duy trì một số căn cứ quân sự bên ngoài biên giới của mình tại 4 quốc gia – Armenia, Kyrgyzstan, Tajikistan và Syria. Nếu các kế hoạch cho các căn cứ tại Biển Đông, Vùng Caribbe và Nam Địa Trung Hải trở thành hiện thực, Nga có thể mở rộng đáng kể khả năng triển khai sức mạnh tại những khu vực quan trọng này.
Khả năng trở lại của Nga tại Vịnh Cam Ranh của Việt Nam là đặc biệt quan trọng. Được coi như nơi trú ẩn nước sâu tốt nhất tại Đông Nam Á, Cam Ranh kiểm soát một tuyến đường biển quan trọng ở Biển Đông.
Năm 1979, Liên Xô đã ký một thỏa thuận với Hà Nội để thuê căn cứ miễn phí trong 25 năm tại Cam Ranh. Căn cứ này đã trở thành căn cứ quân sự lớn nhất của Liên Xô bên ngoài biên giới của mình. Nhưng Nga đã rút khỏi Cam Ranh – và rút cả các trang thiết bị do thám điện tử tại Lourdes của Cuba – vào đầu những năm 2000 khi thởi hạn thuê hết hiệu lực. Sự đua tranh giữa hai siêu cường vốn đặc trưng cho thời kỳ Xô-viết đã kết thúc và Moskva quyết định không cần các cơ sở quân sự quá xa biên giới của mình nữa – đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đòi hỏi hàng trăm triệu đô la tiền thuê hàng năm.
Với sự trỗi dậy về địa chính trị của Nga và các căng thẳng trở lại với Phương Tây, Moskva bắt đầu nghĩ lại quan điểm của mình về các căn cứ ở nước ngoài, bao gồm Cam Ranh. Trong hai năm 2013 và 2014, Moskva và Hà Nội đã ký các thỏa thuận cho phép các tàu chiến Nga viếng thăm được ưu tiên tiếp cận Vịnh Cam Ranh. Nga cũng thiết lập một cơ sở chung cho việc bảo dưỡng các tàu ngầm Việt Nam mua từ Nga.
Trong năm 2014, với sự cho phép rõ ràng từ phía Việt Nam, máy bay tiếp dầu Nga bắt đầu hoạt động từ Cam Ranh. Nhiệm vụ của chúng là tiếp dầu cho các máy bay ném bom chiến lược có khả năng mang vũ khí hạt nhân đang thực hiện các chuyến tuần tra mở rộng trên Thái Bình Dương – một vài chuyến được phát hiện bay vòng quanh khu vực lãnh thổ Hoa Kỳ tại Guam. Quân đội Nga đã hiện diện tại Vịnh Cam Ranh, câu hỏi đặt ra là liệu Cam Ranh có được mở rộng thành một căn cứ đầy đủ tương tự như các cở sở đang được sử dụng bởi Hoa Kỳ tại Nhật Bản và Hàn Quốc hay không.
Câu trả lời thực tế nhất sẽ là không. Việt Nam đã nhanh chóng bác bỏ ý tưởng về một căn cứ quân sự nước ngoài trên lãnh thổ của mình. Những năm gần đây, Việt Nam đang quảng bá Cam Ranh như một cảng mở cho tàu chiến của các quốc gia khác nhau. Đây là một phần chiến lược phòng bị nước đôi (hedging) của Hà Nội – Việt Nam muốn cân bằng ảnh hưởng đang gia tăng của Trung Quốc bằng cách nuôi dưỡng các quan hệ chiến lược với các cường quốc lớn bên ngoài khu vực. Hoa Kỳ là nước có lợi ích quan trọng nhất và cũng là điểm đến hàng đầu của hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam. Hà Nội không muốn gây ra những phản kháng từ Washington bằng cách đồng ý tiếp nhận cả một căn cứ quân sự đầy đủ của Nga.
Tuy nhiên vẫn có những mối nghi ngờ thật sự liệu Moskva có đủ khả năng thiết lập lại và duy trì một mạng lưới các căn cứ trên toàn cầu vốn đòi hỏi phí thuê, nhu cầu bảo dưỡng và chi phí nhân lực đắt đỏ, nặng nề. Với nền kinh tế Nga vẫn đang tụt dốc, tài trợ cho các căn cứ ở nước ngoài sẽ là một nhiệm vụ cực kỳ thách thức.
Nếu ý tưởng về việc khôi phục các căn cứ thời Xô-viết rõ ràng là không thực hiện được, tại sao Điện Kremlin lại nêu lên kế hoạch đó như thê? Có một vài sự giải thích khác nhau. Một là Moskva muốn khiêu khích Washington bằng cách gia tăng sự ám ảnh về hiện diện quân sự của Nga tại các địa điểm chiến lược trên toàn cầu. Cũng có thể đó chỉ là một bước đi mang tính nghi binh để che đậy động cơ thực sự của Điện Kremlin. Rõ ràng, Moskva không che đậy bất cứ bí mật nào về chiến lược hàng đầu của mình, với mục tiêu là dịch chuyển sự cân bằng quyền lực ở khu lục địa Á-Âu. Chiến lược này nằm trong sự gần gũi ngày càng tăng với Trung Quốc.
Quan hệ đối tác chiến lược Nga – Trung hiện nay có vẻ như chắc chắn và hiệu quả hơn một vài quan hệ ‘đồng minh hiệp ước’(‘treaty alliances’) của Washington. Cuộc gặp song phương gần nhất giữa Putin và Tập Cận Bình vào tháng 6 năm 2016 tại Bắc Kinh là rất đáng chú ý vì những phát ngôn chống Mỹ gần như không cần che đậy được đưa ra ở mức cao bất thường.
Trung Quốc và Nga cũng thực hiện một loạt các hoạt động chính trị và quân sự chung. Tháng 6 năm 2016, các tàu chiến Nga và Trung Quốc đã tiến vào vùng biển ngoài khơi quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, nơi mà Tokyo và Bắc Kinh tranh cãi quyết liệt về quyền sở hữu. Tháng 9 năm 2016, Trung Quốc và Nga thực hiện cuộc diễn tập hải quân chung tại khu vực Biển Đông đang có tranh chấp. Putin cũng công khai bày tỏ sự đoàn kết với Trung Quốc trong việc không chấp nhận phán quyết của tòa trọng tài The Hague. Tháng 5 năm 2016, Quân đội Nga và Trung Quốc lần đầu tiên thực hiện cuộc diễn tập chung giữa các đơn vị phòng thủ tên lửa và sau đó đồng ý tiến hành các cuộc tập trận chống tên lửa trong năm 2017.
Nga cũng đang thể hiện ngày càng sẵn sàng bán cho Trung Quốc các hệ thống vũ khí hiện đại nhất của mình, như Hệ thống tên lửa đất đối không S-400 và các máy bay chiến đấu Su-35. Trong một dấu hiệu của sự tăng cường hợp tác trong lĩnh vực công nghệ quân sự không gian, Moskva và Bắc Kinh đã đạt được một thỏa thuận về việc cùng sản xuất các động cơ tên lửa nhiên liệu rắn – lĩnh vực mà Nga có rất nhiều kinh nghiệm chuyên môn – để đổi lại việc Trung Quốc cung cấp các thiết bị vô tuyến hàng không cho ngành công nghiệp hàng không của Nga.
Nếu Nga và Trung Quốc tiếp tục thúc đẩy mối quan hệ chiến lược này, bước chuyển biến lớn tiếp theo sẽ là sự hiện diện quân sự của Nga tại Trung Quốc, đáp lại là sự triển khai của Quân đội Trung Quốc trên đất Nga. Trong vài năm tới chúng ta có thể sẽ không nói về một căn cứ tại Vịnh Cam Ranh, mà về triển vọng của một cơ sở Hải quân của Nga trên đảo Hải Nam hoặc một căn cứ của Trung Quốc trên Quần đảo Kuril.
Artyom Lukin là Phó Giáo sư tại Trường Nghiên cứu về Khu vực và Quốc tế, Đại học Liên bang Viễn Đông, Valdivostok.
[efb_likebox fanpage_url=”DAnghiencuuquocte” box_width=”420″ box_height=”” locale=”en_US” responsive=”0″ show_faces=”1″ show_stream=”0″ hide_cover=”0″ small_header=”0″ hide_cta=”0″ ]