Thiên Nhãn: Giải mã một biểu tượng bí ẩn

Tác giả: Matthew Wilson

‘Thiên Nhãn’ (Eye of Providence) – hình ảnh con mắt độc nhất nằm trong hình tam giác – là một trong những biểu tượng như thế, được gắn không chỉ với hội Tam Điểm (Freemasonry) mà cả với hội Khai Sáng (Illuminati), một hội kín gồm những cá nhân ưu tú được cho là đang tìm cách kiểm soát các vấn đề toàn cầu.

Biểu tượng Thiên nhãn có sức hút lớn đối với các tín đồ thuyết âm mưu, bởi nó ẩn mình ở khắp nơi: không chỉ xuất hiện tại vô số nhà thờ và các toà nhà có liên quan đến hội Tam Điểm trên khắp thế giới, mà nó còn được in trên mặt sau của tờ Một đô la của Mỹ cũng như đã từng là biểu tượng trên Đại Ấn của Hoa Kỳ (The Great Seal of the United States).

Nguồn gốc

Trên tờ 1 đô la Mỹ, Thiên Nhãn nằm phía trên kim tự tháp gồm 13 bậc, tượng trưng cho 13 tiểu bang đầu tiên

Trên thực tế, biểu tượng Thiên Nhãn là một sự lựa chọn khó hiểu và có phần kỳ lạ cho chính quyền của Hoa Kỳ.

Con mắt độc nhất quái gở truyền tải rõ rệt cảm giác ám ảnh về một nhà cầm quyền chuyên chế kiểm soát công dân. Kết hợp với hình ảnh kim tự tháp bên dưới, ta thấy giống biểu tượng đại diện cho một giáo phái bí mật cổ truyền.

Vậy nguồn gốc của biểu tượng Thiên nhãn là gì, tại sao nó lại thu hút chúng ta mãnh liệt như vậy, và tại sao nó thường gắn liền với các hội kín như Hội Tam Điểm và Hội Khai sáng?

Hình ảnh mắt thần trong bức hoạ Supper at Emmaus (Bữa tối tại Emmaus) của hoạ sĩ Pontormo (1525) là một bức tranh được vẽ lại nhằm che đậy một hình ảnh tam diện vốn bị cấm bởi phong trào Phản Cải cách (Counter-Reformation)
Thiên Nhãn về gốc gác vốn là một biểu tượng của Cơ Đốc giáo và xuất hiện sớm nhất trong những tác phẩm nghệ thuật tôn giáo của thời kỳ Phục Hưng, nhằm thể hiện Chúa.

Một trong số đó là tác phẩm nghệ thuật “Bữa tiệc tại Emmaus” của hoạ sĩ Pontormo vẽ năm 1525 mặc dù biểu tượng Thiên Nhãn được vẽ thêm vào sau khi tác phẩm đã hoàn thành, có lẽ là trong khoảng thập niên 1600.

Một nguồn gốc khác nữa của Thiên Nhãn, đó là quyển tập hợp các biểu tượng, có tên là “Iconologia”, được xuất bản năm 1593.

Trong những phiên bản về sau, biểu tượng Thiên Nhãn được thêm vào như một dạng nhân cách hoá “Thánh Ý”, tức là lòng từ bi của Chúa. Theo như tên gọi và mục đích sơ khai của nó, Thiên Nhãn được tạo ra như một dấu hiệu cho sự chở che đầy yêu thương của Chúa đối với con người.

Dựa trên quá khứ

Không ai biết chắc chắn được người nào là tác giả đầu tiên tạo ra Thiên Nhãn, nhưng người tạo ra nó chắc đã tham khảo một bộ mô-típ về các tôn giáo từng tồn tại trong quá khứ xa xưa.

Hình tam giác vốn là một biểu tượng lâu đời của Chúa Ba Ngôi, gồm Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần; trong những thế kỷ trước hình ảnh Chúa đôi lúc còn được mô tả như một vầng hào quang hình tam giác.

Những tia sáng thường được vẽ quanh biểu tượng Thiên Nhãn cũng là một dấu hiệu đã có từ cổ xưa, được cho là ánh hào quang của Chúa trong mỹ thuật Thiên chúa giáo.

Vậy còn nguồn gốc của hình ảnh độc nhãn là gì?

Trong quá khứ Chúa đã từng được mô tả dưới rất nhiều hình dạng huyền bí, chẳng hạn như dưới dạng bàn tay hiện ra trong mây, nhưng lại chưa bao giờ là một con mắt cả.

Trong cuốn “Book of Hours”, Thiên Chúa được mô tả như một vầng hào quang hình tam giác – có liên hệ với biểu tượng Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần

Có thể nói rằng hình ảnh con mắt độc nhất tự bản thân nó tác động đến tâm lý người xem, ngầm thể hiện uy quyền và sự dõi theo đầy chăm chú.

Hiệu ứng này còn được thấy trong thiên nhiên: “đốm mắt” xuất hiện trên lớp da của một số loài vật nhằm hù doạ kẻ săn mồi.

Nhiếp ảnh gia theo trường phái Siêu thực Man Ray đã tóm gọn chuẩn xác nhất về sự huyền bí của con mắt đơn độc khi ông nhận xét rằng bức tranh “Chiếc gương giả dối” (“The False Mirror” – 1929) của hoạ sĩ René Magritte “nhìn thấu được những gì mà người ta nhìn thấy từ chính bản thân chiếc gương”.

Tuy nhiên, có một lịch sử sâu xa hơn về việc con mắt được dùng thành biểu tượng mà chúng ta cần suy xét – câu chuyện lịch sử đưa chúng ta quay trở về với những tôn giáo cổ xưa nhất.

Vào thiên niên kỷ thứ 3 trước Công Nguyên, người Sumer đã biểu đạt sự linh thiêng cho những bức tượng cổ bằng cách khắc lên đôi mắt mở to bất thường để tăng cường cảm giác được theo dõi sát sao. Họ còn tổ chức các nghi lễ mà trong đó các nghệ sĩ sẽ thổi hồn vào các bức tượng bằng cách “khai quang điểm nhãn” cho đôi mắt của các nhân vật.

 
Người Sumer khắc đôi mắt mở to bất thường để biểu đạt sự linh thiêng của những bức tượng thần thánhTuy nhiên chính người Ai Cập cổ đại mới là tác giả của mô típ ‘độc nhãn’: ví dụ như họ vẽ đôi mắt trên quan tài nhằm giúp người chết nhìn thấy mọi thứ trong thế giới bên kia. Và một trong những biểu tượng con mắt nổi tiếng nhất của Ai Cập là “Eye of Horus” (Con mắt của thần Horus).

Mô típ này thực chất là một sự kết hợp giữa mắt người và mắt chim ưng, có hàng lông mày rậm và vệt lông má đặc trưng của loài chim này.

Theo thần thoại Ai Cập cổ đại, vương thần Horus (thường được miêu tả có hình dạng chim ưng hoặc mình người đầu ưng) bị mất một mắt trong trận chiến với người chú của mình là Set. Sau đó, với sự giúp đỡ của thần Thoth, con mắt đã được chữa lành. Vì thế con mắt của thần Horus (The Eye of Horus) đã trở thành biểu tượng mang tính bảo vệ, thường được dùng làm bùa hộ mệnh hay một món điêu khắc bỏ túi mang theo bên người để phòng thân.

Con mắt của thần Horus – một sự pha trộn giữa mắt người và mắt chim ưng – được mọi người mang theo như vật bảo hộ phòng thân

Biểu tượng này và những chữ viết tượng hình Ai Cập cổ xưa thể hiện những con mắt đơn độc đã gây ảnh hưởng lên nghệ thuật hình tượng châu Âu thời Phục Hưng.

Khi ấy, các học giả và nghệ sĩ có niềm say mê với chữ viết Ai Cập cổ; tuy nhiên họ không hiểu đầy đủ về nó và dù đã cố gắng diễn dịch song lại dịch không chính xác. Một trong những bản dịch nổi tiếng nhất là của tác phẩm trữ tình năm 1499 mang tên “The Dream of Poliphilo” (Giấc mơ Poliphilo), trong đó hình ảnh con mắt độc nhất của Ai Cập được hiểu là “Thượng Đế”.

Tam sao thất bản

Điều này bắt nguồn từ một hiểu lầm căn bản về cách dùng sơ khởi của bộ chữ tượng hình Ai Cập cổ.

Thời nay chúng ta biết rằng các chữ viết tượng hình là sự thể hiện chủ yếu là các ký hiệu âm thanh, nhưng hồi thế kỷ 15 và 16 những bộ chữ tượng hình này lại mang ý nghĩa thần bí hơn nhiều.

Những hình ảnh trong bộ chữ viết tượng hình – thú vật, chim chóc và các hình thù khó hiểu khác – được xem là bí ẩn một cách có chủ ý, mỗi biểu tượng được cắt nghĩa dựa trên cảm hứng của người đọc chứ không phải căn cứ theo hệ thống ngôn ngữ. Vì thế nên người ta tin rằng chúng chứa đựng những câu đố đa nghĩa.

Niềm tin này có ảnh hưởng vô cùng to lớn tới nghệ thuật châu Âu. Khi các bộ từ điển ký tự ra đời, như cuốn “Emblemata” của Andrea Alciati năm 1531 và sau đó là cuốn Iconologia của Cesare Ripa, người ta nhấn mạnh tới sự khó hiểu, mà thường là các biểu tượng trông rất phức tạp, khiến người xem phải tìm cách giải mã và diễn giải thêm về những ý nghĩa của chúng.

Kết quả là một mô típ nghệ thuật như biểu tượng Thiên Nhãn đã được chủ ý khoác lên cái vẻ bề ngoài huyền bí. Đó là điển hình về một biểu tượng gần như được tạo ra chỉ để cho người tao phải diễn giải lại, thậm chí là bị hiểu sai hoàn toàn.

Và điều này thực sự đã xảy ra vào cuối thế kỷ 18. Có ba ví dụ điển hình trong giai đoạn này, cho thấy sự đa dạng ngày càng tăng về tính biểu tượng của Thiên Nhãn.

Hình ảnh Thiên Nhãn xuất hiện ở phía trên của bức tranh Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền 1789 của tác giả Jean-Jacques-François Le Barbier

Ở Pháp vào thời hậu cách mạng dân chủ, bức tranh Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền 1789 của tác giả Jean-Jacques-François Le Barbier thể hiện dòng chữ mang nội dung cấp tiến của bản tuyên ngôn mới cùng với hình ảnh Thiên Nhãn ở phía trên. Trong trường hợp này, Thiên Nhãn đã trở thành một công cụ chuyên chế, nhằm giám sát quốc gia non trẻ đi theo xu hướng bình quyền (tự do – bình đẳng – bác ái) vừa được thành lập.

Ở Anh năm 1794, triết gia Jeremy Bentham đặt hàng kiến trúc sư Willey Reveley thiết kế logo cho nhà tù Panopticon của ông – một nhà tù mới đột phá trong cách giám sát liên tục các phòng giam. Nổi bật trong thiết kế logo đó là hình ảnh Thiên Nhãn – biểu tượng cho sự dõi theo liên tục không lơi lỏng của nền tư pháp công chính – những nguyên tắc được thể hiện bởi những từ viết ở ba cạnh của hình tam giác: “Khoan dung”, “Công lý”, và “Cẩn trọng”.

Một toà nhà hình tròn bao quanh tháp canh – nhà tù Panopticon của Bentham được thiết kế để đảm bảo các tù nhân không thể biết được là khi nào thì họ bị theo dõi

Trước đó vài năm, vào năm 1782, Đại Ấn của của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ được công bố.

Thomas Jefferson, Benjamin Franklin và John Adams đã đề xuất ý tưởng thiết kế, tuy nhiên chính Chủ tịch Quốc hội Lục địa Charles Thomson, với sự hợp tác cùng một luật sư kiêm nghệ sĩ trẻ William Barton, đã nghĩ ra hình ảnh kim tự tháp và Thiên Nhãn, bên cạnh các chi tiết khác của con dấu.

Hình ảnh chiếc kim tự tháp dang dở tượng trưng cho “sức mạnh và sự bền bỉ” với 13 nấc thang đại diện cho 13 tiểu bang lập quốc của Hoa Kỳ. Thiên Nhãn – như trong hai ví dụ trước đó ở Pháp và Anh – là biểu tượng ước lệ cho sự chở che đầy nhân ái của Chúa đối với quốc gia non trẻ.

Cả ba lựa chọn biểu tượng Thiên Nhãn trong các ví dụ trên đều không có liên quan gì đến hội kín Tam Điểm.

Thiết kế của William Barton được dùng cho mặt sau của biểu tượng quốc gia Hoa Kỳ, mặc dù các phương châm trọng yếu trên đó đã thay đổi qua thời gian.

Vậy còn hội kín Khai sáng thì sao?

Thông tin về những năm đầu thành lập của hội này, bắt đầu vào năm 1776 ở Bavaria và tan rã vào năm 1787 vẫn còn rất mờ mịt. Bất tiện hơn nữa là không ai biết được tầm quan trọng của các biểu trưng tượng hình trong thời sơ khai của tổ chức này.

Liệu có đúng là hội kín Khai Sáng được truyền cảm hứng từ hội kín Tam Điểm, vốn thỉnh thoảng có dùng Thiên Nhãn làm biểu tượng của Đấng Khai sáng Toàn năng (Thượng Đế), đi theo cách thức của vô số các giáo hội vào thời điểm đó hay không?

Tuy nhiên, người của hội Tam Điểm không sử dụng rộng rãi biểu tượng Thiên Nhãn cho tới cuối thế kỷ 18, và dùng sau so với việc Bentham, Le Barbier, Thomson và Barton (trong các ví dụ nêu trên) đưa nó vào dùng với các mục đích mang tính chính nghĩa của họ.

Thật không may cho những tín đồ của thuyết âm mưu, biểu tượng Thiên Nhãn trên tờ 1 đô la Mỹ nhằm phản ánh xu hướng thẩm mỹ thời thế kỷ 18 thay vì là sự thể hiện quyền lực của giới tinh hoa bí mật.

Đại Ấn Hoa Kỳ được sử dụng lần đầu vào năm 1782

Cho đến nay, các nghệ sĩ như Madonna, Jay-Z và Kanye West đều bị cáo buộc sử dụng các biểu tượng của hội kín Khai Sáng, trong đó có hình ảnh Thiên Nhãn.

Nhưng thay vì có bất kỳ mối liên hệ nào với hội kín Khai Sáng thì các nghệ sỹ này có một điểm chung, đó là họ đều có cái nhìn nhạy bén đối với những thứ nổi bật về hình ảnh và âm thanh.

Việc Thiên Nhãn liên tục được sử dụng – từ Madonna, Jay-Z, Bentham, Le Barbier, Thomson, Barton, Freemasons, cho đến các nghệ sĩ thời Phục hưng hoặc bất kỳ cá nhân hay tập thể nào khác – là bằng chứng cho thấy đó không phải là một âm mưu được giật dây dàn dựng, mà đơn thuần chỉ là thể hiện sự xuất chúng vượt thời gian của một mẫu thiết kế biểu tượng.

Bài tiếng Anh đã đăng trên BBC Culture.

Nguồn: BBC