Nguồn: Ricardo Lewis, “Does Chinese Civilization Come From Ancient Egypt?”, Foreign Policy, 02/09/2016.
Biên dịch: Tạp chí tri thức zeally
Vào một buổi chiều tháng 3 mát mẻ, một giáo sư địa hoá học tên Sun Weidong có bài diễn thuyết trước một đám đông khán giả gồm sinh viên, giáo sư và kể cả những người ngoài giới hàn lâm ở Đại học Khoa học và Công nghệ tại Hợp Phì, thủ phủ của tỉnh An Huy, đông Trung Quốc. Nhưng ông giáo sư không chỉ nói về địa hoá học. Ông còn đọc to nhiều bài thơ cổ Trung Quốc, có lúc trích dẫn lại mô tả trong sử sách về địa hình của đế chế Hạ triều – thường được cho là triều đại đầu tiên của nền văn minh Trung Hoa, kéo dài từ năm 2080 đến năm 1600 trước Công nguyên. “Dòng nước chảy về phía Bắc và tách thành 9 con sông nhỏ,” Tư Mã Thiên viết trong công trình biên soạn lịch sử của ông vào thế kỉ I, “Sử Ký.” “Dòng nước về sau quy lại một mối và chảy ra biển.”
Nói cách khác, “dòng nước” ở đây không phải sông Hoàng Hà nổi tiếng của Trung Quốc, vốn chảy từ Tây sang Đông. “Chỉ có một con sông lớn trên thế giới chảy về phía Bắc. Đó là sông nào?” ông giáo sư hỏi. “Sông Nile,” một người đáp. Sun cho khán giả xem bản đồ con sông nổi tiếng của Ai Cập và đồng bằng châu thổ của nó – với chín nhánh sông đổ ra Địa Trung Hải. Tôi, tác giả bài viết này, một nhà nghiên cứu cùng nơi làm việc với giáo sư Sun, nhìn khán giả cười và bàn tán xôn xao, cảm thấy thú vị trước việc các tài liệu Trung Hoa cổ dường như lại mô tả địa lý Ai Cập chính xác hơn địa lý Trung Quốc.
Năm ngoái, Sun, một nhà khoa học nhiều thành tựu, đã khơi mào một cuộc tranh luận sôi nổi trên mạng Internet khi đưa ra lập luận rằng những người lập nên nền văn minh Trung Hoa không phải là người Trung Hoa gốc mà là người di cư từ Ai Cập. Ông thai nghén mối liên hệ này từ những năm 1990, khi đo độ phóng xạ để xác định tuổi của các mẫu vật Trung Hoa cổ đại bằng đồng. Điều làm ông ngạc nhiên là thành phần hoá học của các mẫu vật này giống với thành phần hoá học của các mẫu vật ở Ai Cập hơn là các quặng kim loại ở Trung Quốc. Cả ý tưởng của Sun lẫn những tranh cãi xoay quanh chúng thực ra đến từ một truyền thống dân tộc chủ nghĩa đã có từ lâu của nền khảo cổ ở Trung Quốc, vốn bỏ ra hơn một thế kỷ đi tìm câu trả lời cho một câu hỏi khoa học mà vẫn luôn bị chính trị hoá: Người Trung Quốc đến từ đâu?
Sun lập luận rằng công nghệ Thời đại Đồ đồng ở Trung Quốc, vốn được nhiều học giả cho rằng đến từ phía Tây Bắc qua Con đường Tơ lụa tiền sử, thực chất đến từ đường biển. Theo ông, những người mang kỹ thuật này đến là người Hyksos, một dân tộc Tây Á trị vì phía Bắc Ai Cập giữa thế kỷ 17 và 16 trước Công nguyên. Ông chỉ ra rằng người Hyksos đã sở hữu từ sớm những kỹ thuật và phát kiến như luyện đồng, xe, chữ viết, và trồng trọt-chăn nuôi – những thứ mà các nhà khảo cổ học phát hiện ra tại Ân thành của Thương triều, giữa năm 1300 và 1046 trước Công nguyên. Vì người Hyksos được biết là đã chế tạo thuyền phục vụ chiến tranh và giao thương, giong buồm đi khắp biển Đỏ và Địa Trung Hải, Sun phỏng đoán rằng một nhóm nhỏ người dân đã bỏ chạy khỏi triều đại suy tàn [của người Hyksos], sử dụng công nghệ hàng hải, thứ công nghệ đã mang người Hyksos và văn hoá đồ Đồng của họ đến bờ biển Trung Quốc.
-oOo-
Giả thiết của Sun gây nhiều tranh cãi khi trang web du lịch Kooniao đăng giả thiết của ông dưới dạng một bài tiểu luận 93.000 chữ cái vào tháng 9/2015. Caixin, một trang tin tức tiến bộ, bình luận rằng, “Tiêu đề táo bạo và ngôn ngữ thẳng thắn của giáo sư đã thu hút rất nhiều sự chú ý.” Bài tiểu luận có tiêu đề “Phát hiện khảo cổ chấn động: Tổ tiên người Trung Quốc đến từ Ai Cập,” và nó nhanh chóng được lan truyền quanh cộng đồng mạng, từ các cổng thông tin như Sohu đến các diễn đàn như Zhihu và Tiexue. Koonia cũng đăng một trang riêng chuyên về chủ đề này trên Weibo, một trang web microblogging, với hashtag “Người Trung Quốc đến từ Ai Cập” – tại đây ta có thể quan sát được nhiều phản ứng từ công chúng. Nhiều người bày tỏ thái độ phẫn nộ, nhiều khi đến mức khó hiểu: “Cái lý thuyết của ông chuyên gia đó chấp nhận ai làm tổ tiên ông ta cũng được,” một người bức xúc. “Đây là phức cảm tự ti thôi!” Một người khác hỏi, “Làm sao mà con cháu Hoàng Đế lại trốn chạy từ Ai Cập được? Chủ đề này quá thảm hại. Thứ quan trọng là phải sống trong hiện tại!”
Cũng có nhiều người bình luận suy nghĩ thấu đáo hơn. Dù không bị thuyết phục, ít ra họ cố gắng hiểu ý tưởng của Sun. Thực ra, nếu đếm sơ qua số lượng bình luận thì ta sẽ thấy tỉ lệ số bình luận nghiêm túc so với số bình luận chỉ giận dữ đơn thuần rơi vào tầm 3:2. Một người đọc viết: “Tôi đồng tình. Chúng ta phải nhìn vào học thuyết này một cách thông minh. Dù nó đúng hay sai thì cũng đáng để tìm hiểu thêm.” Một người khác viết, “Thế giới này rộng lớn đến mức ta có thể tìm thấy nhiều điều kì lạ trong nó. Ta không thể đơn thuần bảo rằng điều này là không thể.” Một người nữa đồng tình: “Ta không thể khẳng định học thuyết này là sai và bỏ qua hết các bằng chứng. Sự trao đổi giữa các nền văn hoá có thể rất sâu xa.”
Đoán trước được sự phê bình phản bác, Sun viết trên mạng rằng việc nghiên cứu lại về nguồn gốc nền văn minh Trung Hoa “có thể trông buồn cười trong mắt nhiều người, bởi nhiều nhà nghiên cứu lịch sử đã khẳng định từ lâu rằng: Chúng ta [người Trung Quốc] là con cháu Thần Nông và Hoàng Đế.” Sử gia Tư Mã Thiên đã đưa những nhân vật này lên thành tổ tiên dân tộc Hán, và cháu cố của Hoàng Đế là Đại Vũ là người lập ra Hạ triều thần thoại. Những câu chuyện này được sử dụng để giải thích nguồn gốc dân tộc Hán thời Trung Quốc phong kiến cũng như cho đến vài thập kỉ sau khi nền cộng hoà được thành lập vào 1912, nên kể cả những nhân vật nổi loạn, phá bỏ truyền thống lâu đời như Tôn Dật Tiên, Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông đôi khi cũng phải viếng thăm lăng mộ của Hoàng Đế. Kể cả ngày nay, luận điệu phổ biến cho rằng nền văn minh Trung Hoa kéo dài 5000 năm cũng lấy triều đại của vị vua thần thoại này làm xuất phát điểm.
Ít người biết rằng, vào năm 1903, lần đầu tiên, một người chống đối Thanh triều đưa ra học thuyết về nguồn gốc phương Tây của người Trung Quốc dưới một bút danh. Ông lí luận bằng tư tưởng dân tộc chủ nghĩa rằng, “Nếu chúng ta muốn Hán quốc tiếp tục tồn tại, thì điều cấp bách phải làm là thờ cúng Hoàng Đế.” Vào thời điểm đó, nhà Thanh đang suy tàn, và sự lạc hậu của Trung Quốc so với các cường quốc phương Tây khiến người Trung muốn đi tìm kiếm cái hồn dân tộc. Những trí thức chống đối nhà Thanh bắt đầu xem xét lại nguồn gốc nền văn minh Trung Hoa và lần đầu nắm lấy ý tưởng nền văn minh của họ đến từ phương Tây. Tác phẩm phản ánh niềm tin này được viết bởi nhà ngữ văn học người Pháp, Albert Terrien de Lacouperie, được xuất bản năm 1892 với tên gọi Nguồn gốc Tây phương của Nền văn minh cổ Trung Hoa từ năm 2300 trước Công nguyên đến năm 200 sau Công nguyên. Được dịch sang tiếng Trung vào năm 1903, cuốn sách so sánh các hình ngôi sao sáu cạnh trong Kinh Dịch với chữ hình nêm của nền văn minh Mesopotamia và cho rằng văn minh Trung Hoa xuất phát từ Babylon. Hoàng Đế được cho là một vị vua Nakhunte đã dẫn dắt người dân của mình ra khỏi Trung Đông và đến với Đồng bằng Trung tâm sông Hoàng Hà vào khoảng năm 2300 trước Công nguyên.
Liu Shipei, giáo sư lịch sử trường Đại học Bắc Kinh và tác giả của Lịch Hoàng Đế, là một trong số những người đầu tiên ủng hộ thuyết nguồn gốc Trung Hoa-Babylon trong những cuốn sách của ông, như cuốn Lịch sử Đất nước Trung Hoa được xuất bản năm 1903. Đến 1915, học thuyết được phổ biến rộng rãi đến mức quốc ca của nước cộng hoà, được đích thân Tổng thống Viên Thế Khải yêu cầu sáng tác, gọi Trung Quốc là “hậu duệ danh tiếng từ đỉnh Côn Lôn,” đỉnh núi ở phương Tây xa xôi theo huyền thoại Trung Quốc. Tôn Dật Tiên, người sáng lập nước Cộng Hoà Trung Hoa, viết trong Học thuyết Tam dân (xuất bản năm 1924) của ông rằng “sự phát triển của nền văn minh Trung Hoa có thể… được giải thích bằng việc người dân từ một nền văn minh rất phát triển khác đã di cư đến thung lũng này.”
Đối với những nhân vật này và các nhà cách mạng khác, học thuyết Trung Hoa-Babylon không chỉ là ý kiến khoa học châu Âu mới nhất lúc bấy giờ. Nhiều người hi vọng rằng nếu Trung Quốc có chung nguồn gốc với nhiều nền văn minh vĩ đại khác, không có lí do gì Trung Quốc không thể bắt kịp các quốc gia tiến bộ ở châu Âu và châu Mỹ.
Học thuyết Trung Quốc-Babylon dần bị bỏ rơi vào cuối những năm 20 và đầu những năm 30 của thế kỉ 20, khi Nhật Bản trở nên hiếu chiến hơn và chính trị dân tộc chủ nghĩa chiếm ưu thế. Các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc tìm cách đưa Trung Quốc tránh xa các đế quốc phương Tây, và nghi ngờ những giả thuyết về nguồn gốc phương Tây của nền văn minh Trung Quốc cũng như những người ủng hộ chúng. Cũng cùng thời gian này, khoa học khảo cổ hiện đại xuất hiện ở Trung Quốc. Đồ gốm thời kì đồ đá mới được khai quật ở Long Sơn, tỉnh Sơn Đông, vào năm 1928 cho thấy miền đông Trung Quốc đã có người bản địa sinh sống từ trước cuộc di dân thời đồ đồng mà Lacouperie nói đến. Cùng năm đó, công cuộc khai quật Ân thành bắt đầu. Theo những nghiên cứu về nền văn hoá vật chất Ân-Thương (với hiện vật nổi tiếng nhất là những xương hươu, mai rùa, vỏ sò được khắc chữ viết được cho là tổ tiên của Hán tự hiện đại), chính thể này thường được cho là “gốc rễ của văn minh Trung Hoa,” nằm gọn trong biên giới Trung Quốc, vùng An Dương tỉnh Hà Nam.
Cuối cùng thì các học thuyết nguồn gốc phương Tây bị thay thế bởi một sự “thoả hiệp”: học thuyết nhị nguồn của nền văn minh Trung Hoa. Quan điểm này đề xuất rằng văn hoá thời kì đồ đá mới phía Đông tiến về phía Tây, gặp nền văn hoá thời kì đồ đá mới phía Tây đang Đông tiến, gộp thành tổ tiên của Thương triều. Học thuyết này vẫn vững vàng cho đến những năm 50 của thế kỷ 20.
Khảo cổ học Trung Quốc bắt đầu chuyển hướng căn bản sang chủ nghĩa dân tộc cực đoan sau khi nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa được thành lập vào năm 1949 khi mà, theo lời của nhà sử học James Leibold, “Cộng đồng khoa học của Trung Quốc bế quan toả cảng.” Chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa toàn trị yêu cầu giải thích các bằng chứng khảo cổ theo hướng nền văn minh Trung Hoa tự phát triển từ người bản địa và không chịu ảnh hưởng bên ngoài. Nhà khảo cổ học tại Đại học Tứ Xuyên (và sau này là nhà bất đồng chính kiến) Tong Enzheng viết trong bài nghiên cứu của ông về sự chính trị hoá việc nghiên cứu vào thời kì 1949-1979: “Mao Trạch Đông thi hành chính sách bài trừ phương Tây triệt để sau năm 1949,” biến “chủ nghĩa chống đế quốc sẵn có trở thành chủ nghĩa bài ngoại cực đoan. Ngành khảo cổ ở Trung Quốc khó tránh khỏi bị ảnh hưởng.”
Chủ nghĩa Mao cũng yêu cầu rằng nền văn minh Trung Hoa phát triển theo quy luật lịch sử “khách quan” của Marx, từ thời kì bầy đàn nguyên thuỷ đến chủ nghĩa xã hội. Vì thế, các nhà khảo cổ học thời Mao cố gắng dùng các phát hiện của họ để chứng minh các quy luật này, từ đó chính thống hoá tư tưởng của giới cầm quyền. Xia Nai, giám đốc Viện Khảo cổ, viết trong một bài nghiên cứu năm 1972, “Chúng tôi, những nhà khảo cổ học, phải tuân theo chủ nghĩa Marx-Lenin và Tư tưởng Mao Trạch Đông, tận tụy làm theo sự dẫn đường của Chủ tịch Mao, để ‘bắt quá khứ phục vụ hiện tại.’” Không ngạc nhiên khi các buổi họp thời Cách mạng Văn hoá thường có nội dung kỳ lạ kiểu như “Dùng cổ vật trong Đền thờ Khổng Tử ở Khúc Phụ để phê bình Lâm Bưu và Khổng Tử.” Trong khi đó, khẩu hiệu cách mạng đi vào nghiên cứu khoa học cùng với dữ liệu.
-oOo-
Thành kiến tư tưởng trắng trợn nhạt dần trong các nghiên cứu khoa học vào thời kì cải cách hậu-1978, nhưng mục tiêu tối hậu của ngành khảo cổ Trung Quốc – gắn kết các mảnh ghép lịch sử của quốc gia – vẫn tồn tại. Ví dụ nổi tiếng nhất vào thời kì này là Dự án Niên đại Hạ-Thương-Chu, được lấy cảm hứng từ các thành tựu của ngành khảo cổ Ai Cập. Thành viên Hội đồng Nhà nước Song Jian (宋健) đến thăm Ai Cập năm 1995 và đặc biệt ấn tượng với gia phả các Pharaoh từ thiên niên kỷ thứ ba trước Công nguyên. Ông vì thế mà ủng hộ một dự án – nằm trong kết hoạch 5 năm thứ 9 của chính phủ – hứa hẹn sẽ cho các triều đại Trung Quốc một bảng niên đại tương tự. Huy động hơn 200 chuyên gia, với kinh phí khoảng 1,5 triệu đô trong vòng 5 năm, Dự án Niên đại được cho là dự án nghiên cứu trong ngành nhân văn lớn nhất được nhà nước hỗ trợ kể từ năm 1773, khi vua Càn Long uỷ thác cho các học giả viết bộ Tứ khố Toàn thư, một bách khoa toàn thư dài gấp 20 lần Britannica.
Nhiều người đặt nghi vấn về động cơ của Dự án Niên đại. Một trong những người chỉ trích dự án nổi tiếng nhất là nhà sử học Edward L. Shaughnessy của Đại học Chicago, “Có một ham muốn sô vanh trong việc ghi chép lịch sử tới thiên niên kỷ thứ ba trước Công nguyên, đặt Trung Quốc ngang hàng với Ai Cập. Đây là động cơ chính trị và dân tộc hơn là nghiên cứu khoa học.” Nhiều người khác chỉ trích phương pháp và kết quả nghiên cứu của dự án. Nhà khảo cổ học tại Stanford Li Liu không bằng lòng với việc dự án xem nhà Hạ có tồn tại thực và gán cho triều đại này các mốc thời gian nhất định, trong khi chưa có bằng chứng khảo cổ thuyết phục nào cho sự tồn tại của triều đại này.
Nhưng dự án cũng có những người ủng hộ, bao gồm nhà nhân chủng học Harvard Yun Kuen Lee, người đã chỉ ra rằng “mối quan hệ nội tại giữa việc nghiên cứu quá khứ và chủ nghĩa dân tộc không nhất thiết bao hàm việc nghiên cứu quá khứ bị chịu ảnh hưởng xấu.” Sự có ích của khảo cổ học trong việc củng cố niềm tự hào dân tộc và sự chính thống – nó giúp giải thích, và trong một giới hạn nào đó, biện hộ cho ngôn ngữ, văn hoá, và tuyên bố chủ quyền của một quốc gia – có nghĩa là đa số các truyền thống khảo cổ học có một động cơ chủ nghĩa dân tộc đằng sau. Vì thế, ở Israel, khảo cổ học tập trung vào thời Cựu Ước; ở các nước Bắc Âu, ngành này tập trung vào người Vikings. “Câu hỏi quan trọng cần được đặt ra là dự án có đạt được các chuẩn mực cao của việc làm khoa học hay không,” Yun nói.
Bằng một cách nào đó, học thuyết hiện tại của Sun là một kết quả ngoài ý muốn của chuẩn mực khoa học của Dự án Niên đại. Khi dự án được khởi động vào năm 1996, ông là một nghiên cứu sinh tiến sĩ tại phòng thí nghiệm bức xạ của Đại học Khoa học và Công nghệ. Trong số hơn 200 cổ vật đồ đồng ông chịu trách nhiệm phân tích, một vài món đến từ Ân thành. Ông phát hiện ra là hoạt động phóng xạ của các đồ đồng thời Ân-Thương này có cùng tính chất với các đồ đồng Ai Cập cổ đại, gợi ý rằng những quặng kim loại làm ra chúng đến từ một nguồn: các mỏ kim loại châu Phi.
Có lẽ vì đoán trước được tranh cãi sẽ nổ ra, vị giáo sư giám sát đề tài tiến sĩ của Sun không cho phép ông báo cáo các kết quả tìm được vào lúc này. Sun được yêu cầu giao nộp dữ liệu thu được và chuyển sang một dự án khác. 20 năm sau, Sun giờ đã trở thành một giáo sư, và cuối cùng thì ông cũng đã sẵn sàng công bố những gì ông biết về văn hoá đồ đồng thời Ân-Thương.
Mặc dù phần đông dư luận tiếp nhận học thuyết của Sun với sự cởi mở, học thuyết của ông vẫn nằm ngoài giới hàn lâm truyền thống. Kể từ những năm 90 của thế kỉ 20, đa số các nhà khảo cổ Trung Quốc đã đồng ý rằng đa số công nghệ đồ đồng đến từ những vùng đất bên ngoài Trung Quốc. Nhưng những công nghệ này không được cho rằng là đã đến từ Trung Đông thông qua một cuộc di dân khổng lồ. Đa số đồng thuận rằng công nghệ đồ đồng đến với Trung Quốc qua việc giao thương, cống nộp, kết hôn từ những vùng đất phía Bắc, qua trung gian là những người du mục Á-Âu đã tiếp xúc với dân bản địa ở cả hai vùng.
Tuy nhiên, hứng thú với Ai Cập cổ đại khó mà biến mất sớm. Như Dự án Niên đại Hạ-Thương-Chu đã chứng tỏ, sự mê hoặc này có gốc gác chính trị sâu xa. Những gốc gác này được gợi lên một lần nữa trong chuyến thăm cấp nhà nước đến Ai Cập của chủ tịch Tập Cận Bình vào tháng 1 để kỷ niệm 60 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa 2 nước. Khi đến nơi, Chủ tịch Tập chào Tổng thống Ai Cập Abdel Fattah el-Sisi với một câu ngạn ngữ Ai Cập: “Một khi đã uống nước sông Nile, ai cũng sẽ phải trở về.” Hai người tán dương sự cổ xưa của hai nền văn minh bằng một chuyến thăm đến đền Luxor.
Thời gian sẽ trả lời câu hỏi liệu học thuyết của Sun có được đưa vào luồng tư tưởng chính trị chính thống để chứng tỏ một mối liên hệ văn hoá cổ xưa giữa Ai Cập và Trung Quốc. Nhưng nếu học thuyết được chấp nhận, câu ngạn ngữ của Tập Cận Bình khi đặt chân vào Ai Cập sẽ mang tính tiên tri một cách lạ thường.
Nguồn bài dịch: Tạp chí tri thức zeally