Nguồn: “America and Russia return to traditional great-power diplomacy”, The Economist, 17/06/2021.
Biên dịch: Phan Nguyên
Joe Biden mới 12 tuổi vào năm 1955 khi Dwight Eisenhower tham dự cuộc họp với Nikita Khrushchev tại Geneva, cuộc họp thượng định song phương lần đầu tiên giữa các nhà lãnh đạo Mỹ và Liên Xô. Tổng thống Mỹ hiện tại cũng mới là một thượng nghị sĩ 42 tuổi làm việc về vấn đề kiểm soát vũ khí khi Ronald Reagan lần đầu tiên ngồi trên cùng một chiếc ghế sofa với Mikhail Gorbachev cũng tại thành phố này, trong sự kiện hóa ra là bước đi đầu tiên để chấm dứt Chiến tranh Lạnh.
Vào ngày 16 tháng 6, đến lượt Biden chạm trán với nhà lãnh đạo Nga, Vladimir Putin, người đã làm xói mòn nhiều thành tựu của trật tự hậu Chiến tranh Lạnh và làm sống lại một số hoạt động tồi tệ nhất thời Liên Xô. Nhưng dù địa điểm họp giống nhau, cốt truyện lại khác nhau. Đây không phải là cuộc gặp thượng đỉnh giữa hai siêu cường đang nắm giữ vận mệnh của thế giới trong tay. Đó cũng không phải là một nỗ lực để thiết lập lại mối quan hệ, như Barack Obama đã từng làm. Đúng hơn, đó là một câu chuyện âm u hơn một chút.
Mục đích của cuộc họp là quản lý cuộc đối đầu đang diễn ra bằng cách củng cố các lằn ranh đỏ, làm rõ các quy tắc tương tác và đánh giá điểm yếu của nhau. Các thỏa thuận cụ thể duy nhất là bắt đầu một vòng đàm phán hạt nhân mới và đưa các đại sứ trở lại vị trí của họ. Đây đều là những thắng lợi nhỏ nhưng chắc chắn. Việc hai bên quay lại con đường ngoại giao tạo ra một sự thở phào nhẹ nhõm cho thấy mối quan hệ này đã trở nên khó khăn như thế nào kể từ khi Nga sáp nhập Crimea và phát động chiến tranh ở Ukraine vào năm 2014.
Cuộc họp thượng đỉnh là một hướng đi rời xa màn kịch tâm lý căng thẳng trong mối quan hệ của Donald Trump với Putin. Các nhà ngoại giao Mỹ vẫn còn rùng mình khi nhớ lại cuộc họp báo ở Helsinki khi ông Trump nói rằng ông không có lý do gì để không tin vào Putin. Lần này không có cuộc họp báo chung nào. Nhưng sau cuộc gặp kéo dài chưa đầy 4 giờ trong một biệt thự thế kỷ 18, Putin và Biden đã biết được lập trường của người kia như thế nào: các cuộc tấn công mạng vào cơ sở hạ tầng quan trọng là không thể chấp nhận; tranh chấp xoay quanh Ukraine và Belarus không nên được giải quyết bằng biện pháp quân sự. Việc giết Alexei Navalny, thủ lĩnh phe đối lập bị bỏ tù, sẽ mang lại các hậu quả nghiêm trọng, nhưng đáng tiếc là nếu các hành vi vi phạm nhân quyền xảy ra, chúng nên được đối xử tách biệt với các vấn đề an ninh. Theo cách nói thời Chiến tranh Lạnh, ở đây có nhiều dấu hiệu của sự “hòa hoãn”.
Biden đã định vị lại mối quan hệ song phương trên phương diện đại chiến lược, coi đó như một cuộc cạnh tranh giữa các nền dân chủ và chế độ chuyên quyền, bên được đại diện bởi Nga trong tuần này, mặc dù chủ yếu vẫn là Trung Quốc. Ông đặt cuộc gặp của mình với Putin trong bối cảnh sự đoàn kết mới trong khối G7 và NATO. Phong cách và luận điệu của ông là nhằm làm nổi bật sự khác biệt của ông so với Trump. Câu thần chú của ông là “khôi phục lại khả năng dự đoán được và sự ổn định” cho mối quan hệ Mỹ – Nga, tạo cơ sở để mối quan hệ hoạt động trở lại, dù có thể vẫn mang tính đối đầu, như trong thời kỳ quan hệ với Liên Xô.
Vấn đề là người ngồi đối diện Biden ở Geneva không phải là một nhà lãnh đạo kiểu Liên Xô bị hạn chế bởi hệ tư tưởng, thứ bậc trong đảng, và quan trọng nhất là trải nghiệm cùng nhau giành chiến thắng trong Thế chiến II.
Đúng hơn, Putin là sản phẩm của sự sụp đổ của Liên Xô. Ông đứng đầu một chế độ tham nhũng được thống trị bởi các cơ quan an ninh sẵn sàng dùng vũ lực. Đó là một chế độ quan tâm đến tài sản hơn là ý thức hệ, và bận tâm đến sự sống còn của chính mình hơn là một cuộc cạnh tranh toàn cầu với Mỹ, chưa nói đến lợi ích của người dân Nga. Chế độ đó phát triển dựa trên sự rối loạn. Họ đã xâm lược các nước láng giềng, đầu độc các đối thủ và tiến hành cuộc chiến thông tin và chiến tranh mạng chống lại phương Tây. Putin nói về việc khôi phục sự vĩ đại của Nga trong khi cho phép các thân hữu của mình cướp bóc tài nguyên của đất nước.
Điều nguy hiểm là luận điệu có vẻ cứng rắn của Biden sẽ thay thế cho các hành động cứng rắn, thay vì là cơ sở tiền đề cho các hành động như vậy. Nguồn gốc của cuộc họp thượng đỉnh nói lên nhiều điều hơn so với kết quả của nó.
Vào tháng 3, hai tháng sau khi nhậm chức, trùng với ngày Navalny trở lại Nga và bị bắt giam, Biden đã gọi Putin là kẻ sát nhân. Putin cười khẩy, chúc Biden sức khỏe và đề nghị gặp nhau tranh luận trên truyền hình. Văn phòng của Biden trả lời rằng tổng thống có nhiều việc hữu ích hơn để làm vào cuối tuần đó.
Vài tuần sau, Putin tập trung một đội quân khổng lồ ở biên giới phía đông Ukraine. Đồng thời, ông dùng toàn bộ bộ máy an ninh nội địa của mình để đè bẹp phong trào của Navalny và thanh trừng những người bất đồng chính kiến có vai vế trên chính trường Nga. Một số người đã chạy ra nước ngoài. Putin đã bóp nghẹt một số hãng truyền thông độc lập còn lại bằng cách gọi họ là “tay chân của nước ngoài”, do đó khiến các nhà quảng cáo sợ hãi không dám dùng dịch vụ của họ. Để giúp Washington hiểu rõ thông điệp hơn, tình báo Nga đã tấn công mạng vào các nhóm nhân quyền và các tổ chức nghiên cứu chính sách của Mỹ chỉ trích Putin.
Sự khuấy động chiến tranh ở Ukraine của Nga đã thu hút sự chú ý của Biden; và Biden đề nghị một cuộc họp thượng đỉnh. Nhóm của ông hy vọng rằng đưa ra những nhượng bộ phù phiếm với Putin sẽ khiến Putin ít gây rắc rối hơn. Đồng thời, họ cũng hy vọng sẽ đưa ra một ví dụ mới về sức sống của nền dân chủ và vai trò lãnh đạo toàn cầu của Mỹ.
Biden sau đó đã mang lại cho Putin một chiến thắng khác, vượt qua sự phản đối của các trợ lý hàng đầu của ông, bằng cách miễn trừng phạt đối với một trong những công ty đứng sau dự án đường ống dẫn khí Nord Stream 2 mà Nga đang xây dựng dưới Biển Baltic nối tới Đức, bỏ qua lãnh thổ Ba Lan và Ukraine. Biden có ý nói đây là một sự nhượng bộ không phải đối với Nga mà đối với Đức và đối với những gì đã xảy ra trên thực tế (vì đường ống đã hoàn thành 90%). Tuy nhiên, Putin và Volodymyr Zelensky, tổng thống Ukraine, những người chỉ biết về quyết định của Mỹ qua các phương tiện truyền thông, đều coi đây là một chiến thắng lớn cho Nga.
Putin đã báo hiệu rằng bản thân ông cũng muốn một mối quan hệ “ổn định và có thể đoán được” – nhưng theo cách hiểu của ông nghĩa là Mỹ nên tránh xa các vấn đề của Nga cũng như khu vực sân sau của nước này. Với hy vọng vạch ra những lằn ranh đỏ của riêng mình, ông đã “đánh phủ đầu” cuộc họp bằng cách gọi phong trào của Navalny là “cực đoan”, đe dọa hủy diệt Ukraine nếu NATO xích lại gần hơn, và chống lưng cho Alexander Lukashenko, nhà độc tài Belarus, người hồi tháng trước đã bắt cóc một máy bay của hãng Ryanair để bắt giữ một đối thủ chính trị.
Nếu Biden cần giảm bớt căng thẳng với Nga để có thể tập trung vào một cuộc cạnh tranh cấp bách hơn là với Trung Quốc, thì Putin cũng cần một hình thức hòa hoãn nào đó với Mỹ để có thể tập trung vào công việc cấp bách hơn là trấn áp bất đồng chính kiến và xây dựng lại đế chế của mình. Andrei Kortunov, giám đốc Hội đồng Quan hệ Quốc tế Nga, một viện nghiên cứu chính sách, bình luận rằng: “Trong vài năm qua, Điện Kremlin dường như đã đi đến kết luận rằng họ không thể đồng thời loại bỏ các rủi ro đối với chế độ của mình ở quê nhà trong khi cũng phải chiến đấu chống lại phương Tây với cái giá kinh tế ngày càng tăng”.
Trong khi Biden, giống như Obama trước đây, chỉ coi Nga là một sự phiền toái gây sao nhãng, thì Putin lại coi nước Mỹ và các giá trị của nước này như một mối đe dọa hiện hữu. Dmitri Trenin, giám đốc Trung tâm Carnegie Moskva, một viện nghiên cứu chính sách, nói: “Nếu Putin thực hiện danh sách các mong muốn của Biden, thả tất cả tù nhân chính trị, rút khỏi Crimea và Donbas, [và] nhượng bộ phương Tây trên các vấn đề chính, thì điều đó sẽ dẫn đến sự sụp đổ của chế độ hiện tại”. Trong cuộc họp báo của mình, Putin đã cố gắng biện minh cho sự đàn áp của mình bằng cách gọi các đối thủ chính trị của mình là tay chân của Mỹ và chỉ ra những điều bất công ở chính nước Mỹ, từ tội phạm súng đạn đến nhà tù Vịnh Guantanamo.
Hiện tại, ván bài của Putin dường như đã mang lại kết quả. Tiến bộ về các thỏa thuận hạt nhân và sự quay lại trụ sở của các đại sứ mang lại vẻ ngoài chính danh cho một chế độ bất hảo vốn sẵn sàng hy sinh mạng sống người dân để bảo vệ của cải và quyền lực của mình. Nhưng vẫn còn phải xem liệu hội nghị thượng đỉnh này, cũng như những cuộc họp sắp tới, có làm cho chế độ của Putin bớt nguy hiểm hơn hay không. Fiona Hill, người từng phục vụ trong Hội đồng An ninh Quốc gia dưới thời Trump, lập luận rằng chế độ Putin đã trở thành một trong những mối đe dọa an ninh lớn nhất đối với các chính phủ phương Tây, bên cạnh các cuộc tấn công mạng. “Chúng ta phải chứng tỏ rằng chúng ta sẵn sàng giữ vững lập trường bằng hành động chứ không chỉ bằng lời nói. Nếu không, chúng ta chỉ đơn giản là mở đường cho Nga ngày càng lấn tới”.