Bài học từ Ukraine (P3): Tại sao không nên giao nhiệm vụ đảm bảo hậu cần cho các tướng lĩnh?

Print Friendly, PDF & Email

Nguồn: Shashank Joshi, Why logistics are too important to be left to generals, The Economist, 03/7/2023

Biên dịch: Nguyễn Thế Phương

Xem thêm: Phần 1; Phần 2

Cuộc xâm lược của Nga cho thấy chiến tranh phụ thuộc vào hậu cần nhiều như thế nào

Sử gia người Israel Martin van Creveld đã gọi các đội quân là “những thành phố di động” (ambulant cities). Làm thế nào để đảm bảo cho hằng trăm nghìn binh lính được cung cấp đầy đủ nhiên liệu, thức ăn và trang bị là một nỗ lực khổng lồ. Triển khai họ ra chiến trường mà không suy nghĩ tới những vấn đề như vậy có thể tạo ra sai lầm khủng khiếp. Cuộc xâm lược Ukraine của Nga vào tháng 2 năm 2022 là một câu chuyện mang tính chất cảnh báo.

Vào những ngày đầu tiên của cuộc chiến, binh sĩ Nga tràn xuống phía nam từ Belarus mà không có đủ lương thực, nhiên liệu và đạn dược. Các đoàn xe quân sự Nga làm tắc nghẽn các con đường dẫn tới Kyiv – trong đó bao gồm một đoàn xe lớn kéo dài 60 km bị kẹt cứng ở phía bắc thủ đô. Các loại drone, lực lượng đặc nhiệm, và pháo binh Ukraine càng làm dày vò thêm nỗi thống khổ của đoàn quân xâm lược vốn di chuyển hết sức chậm chạp. Các xe tải chở nhiên liệu không được trang bị giáp bảo vệ, cũng như các thiết bị cơ giới hậu cần khác là những mục tiêu đặc biệt hấp dẫn. Theo một viên tướng, trong một cuộc đụng độ ở phía nam Chernihiv, “họ cứ nghĩ rằng họ đã bao vây được chúng tôi…chúng tôi chỉ cần cắt đứt hoàn toàn các tuyến hậu cần của họ, vậy là xong”. Đơn vị đó của Nga đã bị tiêu diệt bởi pháo binh.

Những lỗi lầm kể trên để lộ ra những vấn đề sâu hơn. Theo Ronald Ti, một chuyên gia hậu cần quân sự ở King’s College London, tất cả các đội quân hiện đại đều sử dụng hai cách tiếp cận trong hậu cần, bao gồm phản ứng một cách linh hoạt trước những tín hiệu cung cầu tới từ các đơn vị ở tiền tuyến, và hậu cần “đẩy” (push logistics) trong đó đạn dược và khí tài, nhiên liệu được triển khai dựa trên mức độ sử dụng được dự đoán trước. Nga dựa vào cách tiếp cận thứ hai, theo tiến sỹ Ti, phần lớn là do mô hình chỉ huy từ trên xuống vốn là di sản từ thời Xô-viết, cũng như sự vắng bóng của phương thức quản lý chuỗi cung ứng hiện đại. Cách tiếp cận đó sẽ hiệu quả nếu như nhu cầu sử dụng vũ khí đạn dược được giữ ổn định. Vấn đề là ở chỗ điều đó hiếm khi xảy ra – như những ngày đầu tiên của cuộc chiến ở Ukraine đã cho thấy.

Các đội quân phương Tây thường có tỷ lệ hậu cần trên binh sỹ cao (tooth-to-tail ratio), lên đến 10 nhân lực hậu cần cho mỗi binh sĩ ở tiền tuyến. Nga có ít hơn. Cũng giống như Liên Xô, Nga dựa vào việc di chuyển nhiên liệu bằng các đường ống và các loại nguồn lực khác bằng đường sắt. Phương pháp này có thể mang lại hiệu quả cao: quân đội Nga đã có thể xoay sở di chuyển và sử dụng tổng cộng 700.000 tấn đạn pháo và rốc két chỉ trong 5 tháng đầu tiên của cuộc chiến. Thế nhưng cách tiếp cận này khiến quân đội phụ thuộc rất lớn vào các các điểm trung chuyển đường sắt và những khu hậu cần lớn ở phạm vi gần. Và đây chính là vấn đề. Vào mùa xuân năm 2022, hỏa lực pháo binh Nga đã gần như nghiền nát quân đội Ukraine ở phía đông Donbas. Pháo binh Nga áp đảo Ukraine với tỷ lệ là 3 trên 1. Tình hình thay đổi khi Ukraine tiếp nhận các dàn phóng HIMARS của Mỹ và các hệ thống của Châu Âu có khả năng bắn rốc két chính xác ở khoảng cách trên 70 km. Ukraine đột nhiên có thể đánh trúng các khu nhiên liệu và tập trung đạn dược của Nga phía sau tiền tuyến. Rất nhiều trong số đó được đặt cố định ở một địa điểm không thay đổi kể từ năm 2014.

Hàng loạt các cơ sở hậu cần bị phá hủy sau đó đã khiến quân đội Nga thiếu thốn đạn dược trầm trọng. Điều này đã buộc Nga phải chuyển từ việc thiết lập các trung tâm hậu cần lớn mang tính tập trung sang các cơ sở nhỏ và phân tán, được đặt sâu hơn ở hậu phương. Với khoảng cách vận chuyển đạn dược xa hơn, chưa kể tới sự thiếu thốn xe tải, các bệ đỡ hàng hóa, và nhân lực hậu cần, bộ máy chiến tranh của Nga đã vận hành chậm đi đáng kể. Các quan chức Ukraine cho rằng điều này mở ra khả năng tiến hành các cuộc tấn công lớn ở Kherson và Kharkiv. Nico Lange, một cựu quan chức quốc phòng Đức, nói rằng một binh sĩ Ukraine đã liên hệ việc phá hủy thành công hệ thống hậu cần Nga với năng lực nhận diện những điểm yếu của hệ thống này: “Về căn bản, nó giống như là đối đầu với chính bản thân chúng tôi vào khoảng thời gian 10-15 năm trước vậy”.

Ukraine không phải là hoàn toàn miễn nhiễm trước vấn đề tương tự. Rất nhiều các cơ sở hậu cần quân sự của nước này đã bị phá hủy trong những năm trước cuộc chiến bởi các hoạt động phá hoại bị nghi ngờ là do Nga tiến hành. Từ đó tới nay, một số cơ sở khác đã bị tấn công. Quân đội Ukraine cũng phụ thuộc vào đường sắt. Thế nhưng các tuyến hậu cần của nước này đã được chứng minh là đáng tin cậy, phản ứng nhanh nhạy, và dẻo dai hơn – một phần là do Ukraine đang chiến đấu ngay trên lãnh thổ của họ. Nico Lange chỉ ra rằng hệ thống hậu cần dựa trên đường sắt của Ukraine phụ thuộc vào các ngành công nghiệp sắt thép và kim loại nội địa, vốn đã có khả năng sẵn sàng cung cấp một số lượng đáng kể các bộ phận cũng như công cụ cần thiết, với năng lực sửa chữa nhanh chóng. Các đầu máy xe lửa và phương tiện vận tải cũ được tái sử dụng sau thời gian dài niêm cất. Lange kết luận: “Thật sự không phải là cường điệu hóa khi nói rằng không một quốc gia Châu Âu thuộc NATO nào hiện nay có khả năng đạt được các thành tựu về hậu cần quân sự tương tự như những gì mà Ukraine đã làm trong suốt cuộc chiến”.

Một bài học rút ra là công tác hậu cần quan trong tới mức không nên giao chúng vào tay các tướng lĩnh. Khoảng 30 chuyến bay mỗi ngày hạ cánh xuống Rzeszow, phía đông Ba Lan, mang theo viện trợ quân sự cho Ukraine. Số viện trợ này sau đó được vận chuyển theo đường bộ tới các trung tâm ở khắp đất nước, nơi mà các đơn vị quân đội sẽ tiếp nhận rồi sau đó triển khai ra tiền tuyến. Theo một bộ trưởng Ukraine có liên quan mật thiết tới vấn đề, thì đây là một nỗ lực phối hợp giữa nhà nước, khu vực tư nhân, và xã hội dân sự. Khu vực tư nhân đã hỗ trợ 90% tài chính cho nỗ lực này, với tiền bạc và phương tiện tới từ các công ty nông nghiệp, công ty năng lượng với các trạm xăng dầu của họ, và ngân hàng. Sự phối hợp chặt chẽ với Ba Lan có nghĩa là thủ tục giấy tờ cửa khẩu liên quan tới các loại hàng hóa quân sự chỉ tốn vài phút để thông qua – mức độ dịch chuyển quân sự xuyên biên giới trơn tru tới mức nhiều thành viên NATO phải ghen tị.

Vấn đề tiếp theo nằm ở chỗ phải giữ cho vũ khí tiếp tục hoạt động tốt sau khi đã tới đích. Steven Anderson, một tướng Mỹ về hưu đã từng giám sát hoạt động hậu cần ở Iraq, cho rằng “tỷ lệ sẵn sàng tác chiến” (operational readiness rate) của trang thiết bị kỹ thuật ở Iraq khi đó là 95%. Mỗi khi tỷ lệ đó rơi xuống dưới 90%, thì vị chỉ huy phụ trách lại bị triệu tập tới gặp cấp trên. Ở Ukraine, số liệu không chính thức cho thấy tỷ lệ sẵn sàng tác chiến của vũ khí là dưới 50%. Theo Anderson, “một nửa số vũ khí chúng ta cung cấp cho họ bị hư hỏng, và họ đang gặp khó khăn rất lớn”. Trong hầu hết thời gian của cuộc chiến, các khẩu đội pháo bị hư hỏng của Ukraine được gửi tới Đông Âu để sửa chữa. Kể từ mùa thu, một số lượng pháo lớn hơn đã được sửa chữa tại Kryvyi Rih, một thành phố công nghiệp gần mặt trận phía nam. Thế nhưng năng lực ở đây vẫn còn hạn chế. Ông Anderson than phiền rằng chỉ dưới 4% viện trợ của Mỹ là dành cho hỗ trợ và bảo dưỡng.

Vội vàng ứng biến

Phải ứng biến là kết quả tất yếu. Tìm kiếm và thu thập bộ phận thay thế luôn là một phần của chiến tranh. Trong cuộc chiến Falklands, nước Anh đã lùng sục các bảo tàng hàng không trên khắp thế giới để tìm kiếm bộ phận tiếp liệu cho các máy bay ném bom Vulcan. Thách thức mà Ukraine phải đối mặt là rất lớn: quân đội nước này vận hành một kho phương tiện thiết giáp và pháo binh có nguồn gốc đa dạng nhất thế giới. Mỗi một hệ thống vũ khí yêu cầu các loại đạn dược, phụ tùng thay thế và kỹ năng vận hành khác nhau. Và mỗi hệ thống lại phải hoạt động dưới điều kiện khắc nghiệt hơn rất nhiều so với yêu cầu của nhà sản xuất. Các bộ dụng cụ sửa chữa được thiết kế để sử dụng dưới điều kiện bình thường hoàn toàn không theo kịp với tần suất sử dụng vũ khí dày đặc tới mức nóng chảy nòng pháo như hiện tại.

Chính điều đó đã buộc Ukraine phải triển khai nhiều sáng kiến mới nhằm duy trì và đảm bảo năng lực chiến tranh. Các tình nguyện viên Ukraine đang tiến hành in 3D các phụ tùng thay thế tại những tòa nhà chỉ cách tiền tuyến vài giờ xe chạy. Chìa khóa cho nỗ lực này chính là phi tập trung hóa (decentralisation). Các lữ đoàn riêng lẻ thường tự tìm kiếm các bộ phận thay thế thay vì phải yêu cầu trực tiếp bộ chỉ huy hậu cần thuộc bộ tổng tham mưu. Theo một nguồn tin có liên quan tới chuỗi cung ứng ngầm, “họ chỉ cần tới một ga-ra và nói rằng: tôi cần cái này. Ông có làm được không?”. Ở một diễn biến khác, Quân đoàn Đổ bộ đường không số 18 của Mỹ đang sử dụng các thuật toán nhằm dự đoán tuổi thọ nòng của các khẩu lựu pháo Ukraine, dự đoán khi nào chúng cần tới các bộ phận thay thế, và khi nào thì đạn dược cần phải được bổ sung.

Nước Mỹ đã quá quen thuộc với việc duy trì các cuộc chiến tranh cách xa hàng nghìn dặm mà trong đó các phương tiện vận tải, máy bay, tàu bè chuyên chở nhu yếu phẩm tới các cảng, sân bay, kho dự trữ không phải đối mặt với nhiều mối đe dọa. Thời kỳ đó đã qua rồi. Chris Dougherty, một cựu chiến lược gia Lầu Năm Góc, trong một báo cáo đã nói rằng “hàng thập kỷ tiến hành các hoạt động mô phỏng và phân tích chiến tranh, cũng như các bằng chứng thực nghiệm cho thấy rằng tấn công vào hệ thống đảm bảo hậu cần [của Mỹ]…là cách hiệu quả nhất để chống lại nước Mỹ. Trong các buổi mô phỏng chiến tranh, các cuộc tấn công của Trung Quốc vào chuỗi hậu cần đã “vô hiệu hóa” các lực lượng Mỹ. Dougherty thúc giục Lầu Năm Góc dịch chuyển nguồn lực tài chính từ các lực lượng chiến đấu sang hậu cần. Các lực lượng quân đội cần phải triển khai nhiều quân nhu hơn ở tiền phương, và phải dựa vào chính địa điểm nơi mình chiến đấu (live off the land) để có được nhiên liệu, dầu nhớt, thức ăn cũng như các bộ phận thay thế. Binh sĩ phải tự mình chiến đấu trong nhiều tuần liền với sự hỗ trợ tối thiểu. Dougherty cho rằng hậu cần từ lâu đã bị coi là có một vị thế “hạng hai” mặc cho vai trò quan trọng của nó trong lịch sử quân sự. Cuộc chiến ở Ukraine đã cho thấy một góc nhìn hoàn toàn mới.