Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương rốt cuộc là gì?

Nguồn: Udayan Das, “What Is the Indo-Pacific?”, The Diplomat, 13/07/2019.

Biên dịch: Đỗ Hương Giang | Biên tập: Lê Hồng Hiệp

Giống như mọi khu vực tưởng tượng khác trên bản đồ nhận thức, Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương là một khái niệm gây tranh cãi với nhiều lối diễn giải đối lập.

Nhìn chung, tấm bản đồ thế giới có thể được phác họa và nhìn nhận theo ba cách. Người ta có thể phân chia thế giới dựa trên các ranh giới địa lý — đất và nước, cao nguyên và bán đảo, biển và đại dương. Một cách nhận thức khác về thế giới là thông qua các ranh giới chính trị, với các lục địa và quốc gia, đảo quốc và lãnh hải, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế. Cách thứ ba để diễn giải tấm bản đồ là qua việc dựng nên những không gian tưởng tượng vượt lên trên phạm vi bao hàm của cả hai khái niệm trên — một tấm bản đồ nhận thức vượt lên không gian vật lý. Những không gian tưởng tượng giống như vậy thường không có mặt trên bản đồ địa lý — đơn cử như khu vực Af-Pak (Afghanistan-Pakistan), và không phải lúc nào cũng tương thích với các chiều kích của không gian chính trị hiện hành, như trường hợp của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.

Khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, hiểu theo cách đó, chính là một tấm bản đồ nhận thức mới được nhắc đến rộng rãi trong thời gian gần đây. Giống như mọi không gian tưởng tượng khác, tồn tại nhiều tranh cãi xoay quanh những đặc tính của khu vực này cũng như ai là người đã tưởng tượng ra nó. Xét về không gian địa lý (geo-spatiality), Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương được hiểu rộng rãi là một không gian kết nối giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Phạm vi của nó chủ yếu được coi là trải dài từ bờ biển phía đông của châu Phi đến bờ biển phía tây Hoa Kỳ, dù rằng định nghĩa này có thể có nhiều biến thể dựa vào việc các chủ thể định vị mình nằm ở đâu trong khu vực rộng lớn này. Xét về vai trò chức năng, sự kết nối và phụ thuộc lẫn nhau của hai đại dương chính là sản phẩm của những động lực ngày càng mạnh mẽ của tiến trình toàn cầu hóa, thương mại cũng như sự tương quan đầy biến động giữa các tác nhân khác nhau, làm phá vỡ những ranh giới cũ và mở ra những hướng đi mới. Một trong số đó là một lối tiếp cận mang tính hội nhập hơn, được tạo điều kiện bởi sự giao thương qua lại ngày một gia tăng giữa các đại dương. Chính bởi những lẽ đó, vùng Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, nơi chứa những tuyến đường biển quan trọng nhất thế giới, với những quốc gia đông dân nhất có nhu cầu năng lượng khổng lồ nằm dọc bờ biển, cùng một phạm vi bao gồm nhiều hàng hóa công toàn cầu giá trị nhất, cũng được kỳ vọng sẽ trở thành trung tâm chính trị, kinh tế của thế giới.

Về mặt chiến lược, Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương được xem như một thực thể liên tục được kết nối với nhau qua eo biển Malacca, tuyến thương mại chính nối liền hai đại dương này. Hai nguyên do chính lý giải tiềm năng chiến lược của vùng Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương: thứ nhất là dấu ấn của Trung Quốc trên khắp khu vực này; và thứ hai, là sự suy yếu tương đối của hệ thống liên minh của Hoa Kỳ và nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm hồi sinh hệ thống ấy.

Những bước tiến hàng hải của Bắc Kinh đã bành trướng khắp cả hai đại dương trong nỗ lực đảm bảo nhu cầu năng lượng cũng như tăng cường quan hệ thương mại. Sự trỗi dậy của Trung Quốc trong khu vực này nằm dưới nhiều hình thức. Tại Biển Đông, những yêu sách lãnh thổ của nước này đã được hiện thực hóa với nhiều động thái lấn chiếm lãnh thổ. Với những bước tiến táo bạo ở vùng biển Nam Á cùng chuỗi cơ sở hạ tầng cảng biển xuyên suốt Ấn Độ Dương, Trung Quốc đang dần khẳng định bản thân như là một cường quốc trong khu vực. Về khả năng kết nối và cơ sở hạ tầng, sáng kiến “Vành đai và Con đường” đã hé lộ phần nào kế hoạch thâu tóm không gian địa chính trị của Trung Quốc. Về kinh tế, Trung Quốc là một đối tác thương mại quan trọng đối với tất cả các quốc gia lớn trong khu vực, và cũng là một tác nhân chủ động trong việc xúc tiến các quan hệ đối tác kinh tế.

Đi đôi với sự trỗi dậy của Trung Quốc là ảnh hưởng đang có phần sụt giảm của Hoa Kỳ. Dù Mỹ vẫn sở hữu lực lượng hải quân hùng mạnh nhất cùng vị thế của một nước đảm bảo an ninh trong khu vực cho các đồng minh, những chiến lược của nước này vô hình trung vẫn để ngỏ nhiều khả năng cho Trung Quốc cũng như gây tổn hại đến lợi ích của các đồng minh. Mặc dù Hoa Kỳ đã tái ghi nhận tầm quan trọng của vùng Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương với động thái đổi tên Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Hoa Kỳ thành Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, việc đơn phương rút khỏi Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) và liên tục kêu gọi các nước đồng minh san sẻ gánh nặng một cách công bằng đã ít nhiều đẩy hệ thống liên minh của nước này vào thế lấp lửng. Thêm nữa, Mỹ cũng đang không mấy thành công trong việc gây ảnh hưởng tích cực lên Úc, Nhật Bản và Ấn Độ — các nền dân chủ cùng chí hướng trong Nhóm Bộ Tứ (Quad) – nhằm gây dựng một “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương mở và tự do” như trước nay vẫn hô hào.

Là một trọng tâm của các vấn đề xoay quanh khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, xung đột Mỹ – Trung cũng dẫn đến nhiều viễn cảnh đối nghịch trong tầm nhìn của các chủ thể khác trong khu vực. Úc, một trong những nước đầu tiên thảo luận khái niệm Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương trong sách trắng quốc phòng, đã ngầm ủng hộ một thế cân bằng giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Mặc dù là thành viên của hệ thống liên minh Hoa Kỳ và ủng hộ sự hiện diện quy mô lớn của nước này trong khu vực, Úc cũng đã nhận thức được sự suy yếu trong ảnh hưởng của Mỹ tại Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Đồng thời, Canberra cũng không thể gạt bỏ những lợi ích kinh tế mà Trung Quốc mang lại cũng như cơ hội tăng cường quan hệ hữu nghị với nhiều đối tác quan trọng khác trong khu vực như Nhật Bản, Ấn Độ và Hàn Quốc — một nước đi cấp thiết đối với tương lai chiến lược của nước này. Phản ánh tinh thần “hợp lưu giữa hai đại dương” như lời Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe, ý niệm về Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Nhật Bản có phần trùng lặp với tầm nhìn của Hoa Kỳ, nhưng chú trọng vào việc thúc đẩy cơ sở hạ tầng, vượt ra ngoài Đông Á, hướng tới Trung Đông và Châu Phi. Tọa lạc ở trung tâm của vùng Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, các nước ASEAN có chiến lược thực dụng hơn đối với khu vực này, với một chiến lược dựa trên bốn lĩnh vực: hợp tác hàng hải, khả năng kết nối, phát triển bền vững và kinh tế.

Tầm nhìn của Ấn Độ về Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương là sự mở rộng những động thái trước đó của nước này ở phía đông thông qua chính sách “Hướng Đông”, giờ là chính sách “Hành động hướng Đông”. Mặc dù Mỹ đã nỗ lực thúc đẩy vai trò của Ấn Độ trong khu vực, chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của nước này cho đến nay vẫn đang thiên về phương án hòa hoãn thay vì tỏ ra quyết đoán. New Delhi, vốn ủng hộ một “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương mở và tự do” và ban đầu cùng chung tầm nhìn với các quốc gia thuộc nhóm Bộ Tứ, vẫn chưa thể xác định rõ ràng về việc liệu chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Ấn Độ sẽ bao gồm cả Trung Quốc hay chống lại nước này. Dù chia sẻ mối quan tâm với liên minh Hoa Kỳ nhằm mang lại một trật tự dựa trên các luật lệ, đặc trưng bởi tự do hàng hải và giải quyết tranh chấp thông qua đối thoại, nhưng Ấn Độ cũng đề cập rằng tầm nhìn của họ về Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương không chủ trương kìm hãm một quốc gia cụ thể nào — ám chỉ Trung Quốc — mà được đặt song song với chính sách An ninh và Phát triển cho Tất cả các nước trong khu vực (SAGAR) của nước này.

Giống như mọi khu vực tưởng tượng khác trên bản đồ nhận thức, Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương là một khái niệm gây tranh cãi với nhiều lối diễn giải đối lập, tạo điều kiện cho sự xung đột về tầm nhìn và lý tưởng giữa các đối thủ chiến lược trong khu vực. Một Trung Quốc đang trỗi dậy, một Hoa Kỳ không chùn bước và hàng loạt các chủ thể khác tại một Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương đầy biến động — tất cả đều sẽ là các tác nhân định hình tương lai chính trị khu vực, với vô vàn những khả năng.

Udayan Das là Trợ lý Giáo sư chuyên ngành Khoa học Chính trị tại Đại học St. Xavier, Kolkata, Ấn Độ.