Tác giả: Trần Nam Tiến
Chính sách ngăn chặn là chính sách chống chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn cầu của Mỹ, tiến hành từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939 – 1945), qua đó chủ trương kìm giữ “sự bành trướng” ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản, thực chất là giành địa vị đứng đầu “thế giới tự do” và tiến lên làm bá chủ toàn cầu của Mỹ. Đối thủ hàng đầu của chính sách ngăn chặn là Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, sau đó là phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc Châu Á, Châu Phi và Mỹ Latinh.
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, quan hệ giữa Mỹ và Liên Xô ngày càng căng thẳng. Trong một bài báo dưới bút danh X viết năm 1947, George Kennan – nhà ngoại giao người Mỹ đang làm việc tại Đại sứ quán Mỹ ở Liên Xô, đã nêu ra công thức ngăn chặn sự lớn mạnh của Liên Xô. Theo ông, Mỹ nên sử dụng các biện pháp ngoại giao hơn là hành động quân sự. Ông còn khẳng định: “nền tảng của bất kỳ chính sách nào của Mỹ đối với Liên Xô đều phải mang tính chất lâu dài, kiên nhẫn và nhất quán cũng như thận trọng trước sự lớn mạnh của Liên Xô”. Những tư tưởng của Kennan được xem là cơ sở quan trọng cho việc hình thành chính sách ngăn chặn của Mỹ.
Chính sách ngăn chặn mở đầu bằng chiến lược “Ngăn chặn Chủ nghĩa cộng sản” do Tổng thống Mỹ Harry S. Truman đề ra. Ngày 12 tháng 3 năm 1947, Tổng thống Mỹ Truman đọc diễn văn trước Quốc hội Mỹ về chiến lược toàn cầu mới của Mỹ – chiến lược ngăn chặn, hay còn gọi là Học thuyết Truman. Tổng thống Truman đã công khai nên lên “sứ mệnh lãnh đạo thế giới tự do chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản”, giúp đỡ các dân tộc trên thế giới chống lại sự “đe dọa” của chủ nghĩa cộng sản, đặc biệt là chống lại sự bành trướng của Liên Xô. Có thể coi, sự kiện này đã chính thức phát động cuộc Chiến tranh Lạnh nhằm chống lại Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Từ đây, mối quan hệ đồng minh giữa Liên Xô với Mỹ và các nước phương Tây trong thời kỳ chống phát xít đã tan vỡ. Thay vào đó, hai bên bước vào cuộc “Chiến tranh Lạnh” với sự đối đầu mang đậm dấu ấn ý thức hệ, mở ra khuôn khổ định hình nền chính trị thế giới kéo dài hơn bốn thập kỷ.
Chính sách ngăn chặn được Mỹ tiến hành từ thời Tổng thống Truman và được thay đổi theo so sánh lực lượng hai phía trong từng thời kỳ, với các chính sách – chiến lược: “Trả đũa ồ ạt” (1954), “Bên miệng hố chiến tranh” của Tổng thống Dwight D. Eisenhower (1956), “Phản ứng linh hoạt” của Tổng thống John F. Kennedy (1961), và các học thuyết mang tên các tổng thống Mỹ kế tiếp: Lindon B. Johnson (1965), Richard M. Nixon (1969), v.v… Nội dung chính của các chiến lược trên là “Chống trả người Nga bằng sức mạnh thường xuyên ở bất cứ nơi nào họ mưu toan xâm phạm lợi ích của ổn định và hòa bình”, giữ sự kiểm soát của họ trong các đường biên giới quân sự năm 1945, với hy vọng đến một lúc nào đó “mâu thuẫn bên trong sẽ phá vỡ chế độ Xô Viết”.
Để thi hành chính sách ngăn chặn, Mỹ đã lập ra các khối quân sự (NATO, CENTO, SEATO), các tổ chức và hiệp ước phòng thủ tay đôi và khu vực. Mỹ cũng lập ra một hệ thống căn cứ quân sự toàn cầu bao vây các nước xã hội chủ nghĩa và không ngần ngại can thiệp quân sự, thậm chí gây chiến ở nhiều nơi trên thế giới như Triều Tiên (1950-1953), Việt Nam, Lào, Campuchia (1954-1975), Cuba (1961), Dominica (1965), Grenada (1985), Panama (1985)… Bên cạnh đó, Mỹ còn thực hiện nhiều kế hoạch phi quân sự như Kế hoạch Marshall tái thiết nền kinh tế châu Âu (1947), thực hiện cấm vận, hạn chế thương mại chống các nước xã hội chủ nghĩa… Mặc dù thất bại ở nhiều nơi, đặc biệt là ở Việt Nam, Lào, Cuba, Mỹ vẫn kiên trì chính sách ngăn chặn dưới những hình thức mới. Những diễn biến ở Đông Âu và Liên Xô vào những năm cuối thập niên 80 thế kỷ 20 được Mỹ gọi là thành công của chính sách ngăn chặn và là cơ hội để chuyển sang thực hiện chính sách mới: chính sách “vượt trên ngăn chặn”.
Thực tế, chính sách “Vượt trên ngăn chặn” được phát triển từ chính sách ngăn chặn truyền thống, do Tổng thống George H. Bush công bố trong diễn văn ngày 12 tháng 5 năm 1989 ở bang Texas (Mỹ) và trong một số diễn văn khác liên quan đến chính sách của Mỹ đối với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Chủ trương của chính sách “Vượt trên ngăn chặn” không chỉ đơn giản ngăn chặn những mục tiêu “bành trướng” của Liên Xô mà còn nhằm thực hiện một cuộc tiến công quyết định trực tiếp vào Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa bằng sự thống nhất nỗ lực của Mỹ và đồng minh nhằm xoá bỏ hoàn toàn chủ nghĩa xã hội. Chỗ dựa của chính sách “Vượt trên ngăn chặn” là sức mạnh liên minh giữa Mỹ và đồng minh phương Tây, trong đó sức mạnh quân sự của Mỹ là chỗ dựa chủ yếu, kết hợp với các công cụ khác: ngoại giao, kinh tế, ưu thế công nghệ kĩ thuật, truyền thông đại chúng… Sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và tan rã của Liên Xô đã củng cố thêm quyết tâm của Mỹ trong việc tiếp tục chính sách “Vượt trên ngăn chặn” với những biện pháp chiến lược mới nhằm xóa bỏ hoàn toàn chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới.
Nguồn: Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, (TPHCM: Khoa QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM, 2013).
Hình: Biếm họa G. F. Kennan. Nguồn: Moscow Times
Xem thêm: Cuộc đời “cha đẻ Học thuyết Ngăn chặn” G. F. Kennan
[efb_likebox fanpage_url=”DAnghiencuuquocte” box_width=”620″ box_height=”” locale=”en_US” responsive=”0″ show_faces=”1″ show_stream=”0″ hide_cover=”0″ small_header=”0″ hide_cta=”0″ ]