Buổi hoàng hôn của ĐCS Trung Quốc

twilightCPC

Nguồn: Minxin Pei, The Twilight of Communist Party Rule in China“, American Interest, 15/12/2015.

Biên dịch: Phạm Gia Minh

Chiến lược sinh tồn của ĐCSTQ sau sự kiện Thiên An Môn đang hết tác dụng và chiến lược mới dường như lại thúc đẩy nhanh hơn sự sụp đổ của nó.

Trong giai đoạn sau Chiến tranh lạnh chưa có chế độ chuyên chế nào trên thế giới lại thành công như ĐCSTQ. Năm 1989 chính quyền đã có một cuộc đàn áp đẫm máu và chết chóc nhưng được bưng bít khi hàng triệu người phản kháng biểu tình trên hầu hết các thành phố chính trong cả nước để kêu gọi dân chủ và trút sự căm giận của mình lên chính quyền tham nhũng. Đảng chỉ thoát chết nhờ sự trợ giúp của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) với hàng đoàn xe tăng nghiến nát những người biểu tình ôn hòa trên khu vực quảng trường Thiên An Môn ở Bắc kinh ngày 4 tháng 6.

Một phần tư thế kỷ kể từ thời điểm cuộc thảm sát Thiên An Môn đã trôi qua nhưng ĐCSTQ luôn phớt lờ mọi dự báo về hồi kết không tránh khỏi của mình. ĐCSTQ đã sống sót sau cú sốc của Liên Xô sụp đổ và còn thích ứng được với cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á những năm 1997-1998, khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Kể từ sự kiện Thiên An Môn, nền kinh tế Trung Quốc đã tăng gần 10 lần nếu tính theo GDP danh nghĩa. GDP tính theo đầu người đã tăng từ 980 đô la lên 13.216 đô la nếu tính theo sức mua tương đương (PPP) trong cùng giai đoạn, đưa quốc gia này lên hàng ngũ các nền kinh tế có thu nhập trên trung bình.

Thật dễ hiểu khi thành tích đó đã khiến nhiều nhà quan sát, kể cả những người từng trải về Trung Quốc tin tưởng rằng ĐCSTQ đã trở thành một chế độ chuyên chế dẻo dai với nhiều sức mạnh nội tại mà đa phần các chế độ chuyên chế khác không có. Ngoài ra, ĐCSTQ được biết đã xây dựng một quy trình hiệu quả cho việc lựa chọn đội ngũ lãnh đạo kế thừa dựa trên các quy định, chuẩn mực để phát hiện những công chức có năng lực cho hệ thống nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội. Khác với chế độ cứng nhắc kiểu Xô viết dưới thời Leonid Brezhnev, ĐCSTQ đã thể hiện năng lực đáng nể trong học hỏi và thích ứng.[1]

Đáng tiếc là đối với những người ủng hộ lý thuyết về sự “chuyên chế dẻo dai”, các giả định của họ, bằng chứng và những kết luận rút ra ngày càng khó bảo vệ dưới ánh sáng của những diễn biến gần đây ở Trung Quốc. Các biểu hiện của cuộc chiến quyền lực căng thẳng trong giới lãnh đạo cao cấp, tham nhũng tràn lan, tính năng động kinh tế bị đánh mất và chính sách đối ngoại hung hăng tiềm ẩn nhiều rủi ro, tất cả đều đang hiển hiện. Kết quả là ngay một số học giả mà công trình của họ gắn liền với luận đề về chế độ chuyên chế dẻo dai cũng đã buộc phải tự nhìn nhận lại.[2] Càng ngày càng thấy rõ rằng những diễn biến gần đây làm thay đổi nhận thức về tính bền vững của ĐCSTQ không mang tính chu kỳ mà có tính hệ thống. Chúng là triệu chứng cho thấy sự suy kiệt, hết tác dụng của sách lược sinh tồn mà chế độ đã đề ra sau biến cố Thiên An Môn. Một số trụ cột của sách lược đó như sự đoàn kết của tầng lớp lãnh đạo cao cấp, tính chính danh dựa trên hiệu quả, sự tham gia của các giai tầng tinh hoa trong xã hội và chủ trương kiềm chế chiến lược trong đối ngoại đã hoặc là đã sụp đổ hoặc trở nên sáo rỗng buộc ĐCSTQ phải ngày càng phải dựa vào đàn áp và kích động chủ nghĩa dân tộc để tiếp tục cầm quyền.

Bởi lẽ đó, giới lãnh đạo cấp cao Trung Quốc đang phải đối mặt với một sự lựa chọn quả quyết nhất kể từ sự kiện Thiên An Môn: mô hình phát triển tư bản thân hữu độc tài chuyên chế sau 1989 thì nay đã chết và giờ đây họ chỉ có thể hoặc là tham khảo Đài Loan và Hàn Quốc để dân chủ hóa, giành được cội nguồn bền vững cho tính chính danh, hoặc là sẵn sàng thực thi chính sách đàn áp gia tăng để duy trì chế độ một đảng cầm quyền. Việc họ sẽ lựa chọn như thế nào sẽ có ảnh hưởng không chỉ Trung Quốc mà cả châu Á và toàn thế giới.

Bất chấp nhận thức phổ biến về các cuộc cách mạng “quyền lực nhân dân” hay “mùa Xuân Ả rập”, cội nguồn quan trọng duy nhất của sự thay đổi trong các chế độ chuyên chế chính là sự sụp đổ của tính đoàn kết trong giới lãnh đạo cấp cao. Diễn biến này có nguyên nhân chủ yếu là do gia tăng mâu thuẫn và xung đột trong giới lãnh đạo cấp cao đối với vấn đề sách lược tồn vong của chế độ và phân chia quyền lực cũng như lãnh địa bảo trợ. Kinh nghiệm chuyển đổi dân chủ từ giữa những năm 1970 cho thấy một khi chính quyền chuyên chế đối mặt với những thách thức đến từ các lực lượng xã hội đòi hỏi các đổi thay về chính trị thì vấn đề gây chia rẽ nội bộ giới lãnh đạo cấp cao chính là hoặc đàn áp các lực lượng đó thông qua leo thang bạo động hoặc là hòa giải với chúng thông qua quá trình tự do hóa.

Khi lực lượng cải cách chiếm ưu thế các bước ban đầu tiến tới chuyển đổi chế độ diễn ra tiếp theo thường là giảm nhẹ sự quản chế về chính trị và xã hội. Nếu như lực lượng cứng rắn thắng trong cuộc đấu thì đàn áp sẽ mạnh hơn nhưng các cuộc đụng độ xã hội và chính trị cũng sẽ leo thang và điều này sẽ tiếp diễn cho tới khi chế độ phải đối mặt với cuộc khủng hoảng khác buộc nó phải xem xét lại câu hỏi phải chăng đàn áp là sách lược đúng đắn nhất.[3] Một nguyên nhân gây chia rẽ phổ biến khác trong giới lãnh đạo cấp cao đó là những xung đột do phân bổ quyền lực và đi cùng với nó là ranh giới các lãnh địa của sự bảo trợ (đôi khi đó cũng là sự bảo kê về kinh tế và chính trị – ND). Trong các chế độ chuyên chế được hình thành vững chắc, ví như ở các quốc gia hậu toàn trị (post- totalitarian) do đảng cộng sản Leninit lãnh đạo thì xung đột này có xu hướng gia tăng khi mà cuộc ganh đua giành quyền lực dẫn tới tình trạng vi phạm các quy tắc và chuẩn mực được thiết lập từ lâu (ví dụ như làm trái Điều lệ Đảng – ND) nhằm bảo vệ sự cân bằng tinh tế về quyền lực trong giới lãnh đạo tinh hoa cũng như vì sự an toàn thân thể của họ. Trong nhiều trường hợp, nếu như không phải là tất cả các trường hợp – và Trung Quốc cũng không là ngoại lệ – những vi phạm đó được gây ra nhân danh các nhóm gia đình và điều này thể hiện một sự tái gia trưởng hóa nền chính trị.[4]

Trong trường hợp Trung Quốc, sự sụp đổ của tính đoàn kết trong giới lãnh đạo cấp cao phát sinh không phải từ cuộc tranh cãi giữa những người theo đường lối cứng rắn với những người cải cách mà lại bởi cuộc đấu đá nội bộ giữa những người theo đường lối cứng rắn với nhau để giành thế thượng phong.

Dấu hiệu khởi phát của sự mất đoàn kết trong giới chóp bu chính là việc thanh trừng Bạc Hy Lai, một cựu lãnh đạo đang lên của ĐCS ở Tứ Xuyên ngay trước Đại hội ĐCSTQ lần thứ 18 năm 2012. Sau này các sự kiện đã cho thấy sự ra đi của họ Bạc chỉ là khúc dạo đầu cho một cuộc thanh trừng làm sạch nội bộ ĐCS lớn nhất kể từ thời Cách mạng văn hóa. Sau đó,Tập Cận Bình, người thắng cuộc, đã chính thức đảm nhận vị trí TBT đồng thời là Chủ tịch quân ủy PLA vào tháng 11/2012 và liền triển khai một chiến dịch chống tham nhũng mạnh tay chưa từng thấy nhằm đạt được thế thượng phong chính trị qua con đường tiêu diệt các đối thủ của mình. Cho dù chiến dịch do họ Tập khởi xướng ngày một trở nên lan rộng nhưng dường như sau một đêm nó đã tháo rời toàn bộ hệ thống mà giới lãnh đạo tinh hoa của ĐCSTQ đã dày công xây nên trong thời kỳ hậu Thiên An Môn nhằm gìn giữ tính đoàn kết, thống nhất của họ.

Có ba trụ cột chống đỡ cho hệ thống này. Thứ nhất là sự cân bằng tinh tế của quyền lực chính trị ở chóp bu được biết đến dưới cái tên sự lãnh đạo tập thể được thiết kế ra nhằm ngăn chặn sự xuất hiện của một lãnh tụ kiểu Mao Trạch Đông, người đã có thể áp đặt ý chí của mình cho toàn đảng. Trong hệ thống này mọi quyết định quan trọng đã được hình thành thông qua quá trình xây dựng sự đồng thuận và thỏa hiệp nhằm bảo đảm quyền lợi của các lãnh đạo cấp cao cùng nhóm lợi ích của họ. Cột trụ thứ hai – an toàn cá nhân tuyệt đối cho các lãnh tụ chóp bu, được xác định bất kể đương chức hay đã về hưu đối với các Ủy viên thường vụ BCT – cũng đã tiêu tan cùng với sự rớt đài của Zhou Yongkang (Chu Vĩnh Khang) – một cựu ủy viên thường vụ BCT, người đứng đầu ngành an ninh nội bộ đã lãnh án tù chung thân vào năm 2015 sau khi bị kết tội tham nhũng. Những nỗ lực chống tham nhũng và các biện pháp khắc khổ đi kèm theo đã chấm dứt ít ra là tạm thời thực trạng chia chác của cướp được trong giới lãnh đạo cấp cao, gây ra cho họ nhiều nỗi đắng cay và theo báo cáo thì điều này đã thúc đẩy họ chống đối bằng cách ngưng trệ công việc. Trong khi còn nghi vấn liệu cuộc chiến chống tham nhũng của họ Tập sẽ thực sự nhổ được tận gốc vấn nạn này hay không thì nó đã rất thành công trong việc phá nát cấu trúc khuyến khích (sự đoàn kết) bên trong của chế độ được hình thành sau biến cố Thiên An Môn.

Xét về bản chất riêng của mình, sự chuyển biến từ “ lãnh đạo tập thể” sang “nguyên tắc một cá nhân mạnh lãnh đạo” chưa chắc đã làm sụp đổ thứ chủ nghĩa Lê Nin mang màu sắc Trung Quốc. Tuy vậy, kết cục ban đầu dễ thấy nhất của sự chuyển biến này cho đến nay đó là sự bốc hơi của tính đoàn kết, thống nhất – chất keo đã gắn kết cả một hệ thống hình thành sau biến cố Thiên An Môn. Mặc dù vậy hiện nay chưa thấy những dấu hiệu thách thức quyền lực của Tập Cận Bình trong ĐCSTQ và có thể đánh cuợc một cách an toàn khi cho rằng các đối thủ của họ Tập đang ẩn mình để đợi tới thời điểm phù hợp thì sẽ đánh trả.

Nếu như sự mất đoàn kết và thống nhất trong giới tinh hoa bị biến thành cuộc đấu chính trị cuối cùng để giải quyết chanh chấp và dẫn tới sự chối bỏ hệ thống mà họ Tập đang cố gắng xây dựng thì chỉ có thể xẩy ra 2 kết cục. Một là sự trở lại với hệ thống tham nhũng hậu Thiên An Môn. Nhìn bề ngoài, điều này có vẻ như một giải pháp hấp dẫn và hứa hẹn nhất, tuy nhiên lại bất khả thi bởi lẽ một số điều kiện cơ sở làm nền móng cho hệ thống hậu Thiên An Môn, cụ thể là sự tăng trưởng kinh tế do đầu tư mang lại và sự hài lòng về chính trị của tầng lớp trung lưu được bảo đảm bởi sự thịnh vượng gia tăng chưa từng có phần lớn đã biến mất. Nếu như nguyên trạng như trước đây không thể phục hồi thì ĐCSTQ sẽ cần một lối thoát khác. Trong khi chưa ai có thể biết ĐCS sẽ lựa chọn gì thì cũng đáng để nhớ lại rằng, vào những thời khắc đó ĐCS sẽ cố thử lại và tận dụng đến cùng 3 mô hình quản trị chuyên chế: đó là Maoit (Chủ nghĩa Cộng sản cực đoan), Đặng (chủ nghĩa tư bản thân hữu) và Tập (cá nhân mạnh lãnh đạo). Thật mỉa mai là ĐCSTQ có thể bị rơi vào tình thế tuyệt vọng và tàn khốc như ĐCS Liên Xô vào giữa những năm 1980: đó là thiếu ý tưởng và chiến lược phục vụ việc duy trì mãi mãi hệ thống lãnh đạo độc đảng và khi đó nó có thể đủ tuyệt vọng tới mức dám đánh cược vào bất cứ thứ gì, kể cả cải cách dân chủ và đa nguyên chính trị như là sách lược lâu dài để giúp ĐCS có sức sống trong một đất nước Trung Hoa đã chuyển biến hoàn toàn bởi quá trình hiện đại hóa đời sống kinh tế – xã hội.

Nếu như tính đoàn kết, thống nhất là chất kết dính của hệ thống hậu Thiên An Môn thì hiệu suất kinh tế như mọi người đều thừa nhận đó chính là cội nguồn quan trọng cho tính chính danh của đảng cầm quyền trong quần chúng. Một phần tư thế kỷ phát triển với tốc độ cao đã đem lại cho ĐCSTQ thời kỳ tương đối ổn định xã hội cùng với những nguồn lực khổng lồ để tăng cường năng lực đàn áp và mua chuộc những giới tinh hoa xã hội mới cùng tầng lớp trung lưu đang nổi lên ở các vùng đô thị. Tuy nhiên, hiện nay khi mà “sự thần kỳ kinh tế của TQ” đã kết thúc thì cột trụ thứ 2 của hệ thống hậu Thiên An Môn cũng đang sụp đổ theo.

Nhìn bề ngoài, sự suy giảm mạnh của kinh tế Trung Quốc có vẻ như là một sự giảm tốc tự nhiên sau mấy thập kỷ tăng trưởng nóng. Nhưng một cái nhìn gần hơn vào nguyên nhân dẫn đến “sự rớt đài vĩ đại của TQ” cho ta thấy chính những trở ngại mang tính cơ cấu và thể chế chứ không phải các yếu tố mang tính chu kỳ mới là chủ đạo và Trung Quốc đang bước vào một giai đoạn phát triển kinh tế tốc độ từ thấp tới khiêm tốn nên điều này sẽ rất nguy hiểm đối với tính chính danh của ĐCSTQ.

Tin tức của báo chí về những rắc rối kinh tế của Bắc Kinh gần đây phần lớn chỉ tập trung vào các biểu hiện dễ thấy và đầy kịch tính của căn bệnh kinh tế Trung Quốc chẳng hạn như sự sụp đổ của thị trường chứng khoán mang tính bong bóng hay việc đồng Nhân dân tệ bị bất ngờ phá giá. Tuy nhiên, sự suy giảm tăng trưởng của Trung Quốc có cội rễ sâu xa hơn.

Về mặt cơ cấu, sự tăng trưởng nhanh của Trung Quốc thời kỳ hậu Thiên An Môn đã được thúc đẩy chủ yếu bởi các nhân tố và hoàn cảnh xảy ra một lần và không lặp lại (one- off) chứ không nhờ tính ưu việt có mục đích của nhà nước chuyên chế. Trong số các nhân tố và hoàn cảnh đó thì nhân tố “cổ tức nhân khẩu học” (demographic dividend) là quan trọng nhất vì nó đã cung ứng gần như không có giới hạn đội ngũ công nhân Trung Quốc trẻ, khỏe, lương thấp để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa. Ngoài chuyện lương thấp, các công nhân từ nông thôn lên thành phố có thể tạo ra một sự gia tăng nhanh chóng năng suất lao động khi kết hợp với máy móc, thiết bị mà không cần đào tạo thêm nhiều. Kết quả là chỉ riêng việc tái bố trí lực lượng lao động dư thừa từ nông thôn sang các nhà máy, cửa hàng thương mại và công trường xây dựng ở thành phố, nền kinh tế đã đạt năng suất lao động cao hơn. Theo số liệu của Trung Quốc, năng suất lao động của một công nhân ở thành thị cao gấp 4 lần một nông dân. Trong 3 thập niên vừa qua có khoảng 270 triệu người lao động nông thôn (không tính gia đình của họ) đã dịch chuyển ra thành thị và hiện nay chiếm tới 70% lực lượng lao động nơi đây. Một số nhà kinh tế ước tính rằng khoảng 20% tăng trưởng GDP của Trung Quốc trong những năm 80 và 90 thế kỷ trước là do tái bố trí lực lượng lao động nông thôn tạo nên.[5] Tuy nhiên bởi vì dân số Trung Quốc đang già đi khá nhanh nên sự dịch chuyển dân số ào ạt từ nông thôn ra thành thị đã đạt điểm đỉnh. Nhân tố thuận lợi mang tính cơ cấu này chỉ xảy ra có một lần mà không lặp lại.

Một cú hích tích cực góp phần thúc đẩy tăng trưởng của Trung Quốc thời kỳ hậu Thiên An Môn chính là việc quốc gia này gia nhập WTO vào năm 2001. Vào  những năm 1990 tăng trưởng xuất khẩu của Trung Quốc trung bình đạt 15,4% hàng năm nhờ có sự hội nhập với nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên sau khi gia nhập WTO Trung Quốc đã đạt tăng trưởng xuất khẩu 21,7% trong suốt giai đoạn 2002-08. Tăng trưởng nhờ xuất khẩu bắt đầu chậm lại sau 2011. Từ năm 2012 đến 2014, xuất khẩu chỉ tăng trưởng 7,1%, tức là bằng 1/3 tăng trưởng của thập niên trước đó. Bảy tháng đầu năm 2015 xuất khẩu co lại khoảng 1%, điều có lẽ đã khiến Bắc kinh nhanh chóng phá giá đồng tiền của mình.

Nhưng có lẽ khía cạnh gây rắc rối nhất trong triển vọng phát triển kinh tế dài hạn của Trung Quốc chính là sự suy giảm kết quả thu được từ chiến lược tăng trưởng dựa vào đầu tư của quốc gia này. Là một nước đang phát triển với số vốn tương đối thấp, ở thời kỳ ban đầu Trung Quốc đã hưởng lợi lớn từ sự tăng trưởng bền vững của các khoản đầu tư. Trong các năm 1980 Trung Quốc đã đầu tư trung bình khoảng 35,8% GDP vào các nhà máy, hạ tầng cơ sở và nhà ở. Tỷ lệ này đã tăng lên 42,8% trung bình trong những năm 2000 và đạt 47,3% từ năm 2010. Sự gia tăng đầu tư ào ạt này đã tạo ra hơn một nửa mức tăng trưởng GDP của Trung Quốc và là động cơ tăng trưởng chủ yếu của nền kinh tế trong hai thập kỷ rưỡi.

Tuy nhiên tăng trưởng dựa vào đầu tư trong bối cảnh của Trung Quốc có 3 hậu quả xấu. Một là lợi nhuận từ các khoản đầu tư giảm dần bởi lẽ mỗi đơn vị gia tăng của đầu ra đòi hỏi phải đầu tư nhiều hơn nếu được tính theo tỷ lệ vốn/sản lượng đầu ra (capital output ratio – lượng đầu tư cần thiết để sản xuất ra thêm một đồng nhân dân tệ trong GDP). Trong những năm 1990 tỷ lệ này của Trung Quốc là 3,79, đến những năm 2000 đã tăng lên 4,38. Xu hướng tăng trưởng đòi hỏi phải tăng đầu tư rõ ràng không mang tính bền vững. Trung Quốc gần đây đầu tư gần như một nửa GDP của mình, một con số phi thường đã trở thành hiện thực nhờ sự quản lý của nhà nước trong phát triển cơ sở hạ tầng. Mức độ dư thừa công suất và phân bổ vốn bất hợp lý cũng phi thường không kém.

Một tác hại nữa gây bất lợi cho nền kinh tế đó là các khoản đầu tư đã vắt kiệt tiêu dùng của các hộ gia đình (36% GDP năm 2013 nếu so với 60% ở Ấn Độ) làm nảy sinh tình trạng mất cân đối cơ cấu khiến sự tăng trưởng bền vững hầu như là không thể. Sự tăng trưởng đó cần bắt đầu từ việc quay lưng lại với phương thức lấy xuất khẩu làm chủ đạo để trở lại với tăng trưởng thị trường trong nước, tuy nhiên điều này không thể đạt được khi mà tiêu dùng hộ gia đình đang ở mức thấp do các nguyên nhân nhân tạo.[6]

Chi phí sau cùng của tăng trưởng dựa vào đầu tư đó là quá trình này được cung cấp tài chính bởi các khoản tín dụng và sau đó đầu tư vào những ngành công nghiệp đã dư thừa công suất tới mức nguy hiểm. Với tỷ suất dư nợ/GDP vượt ngưỡng 280% GDP hiện nay (so với 121% năm 2000) rủi ro của sự bùng nổ toàn diện một cuộc khủng hoảng tài chính đã tăng cao bởi lẽ những con nợ lớn là chính quyền địa phương, các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp phát triển bất động sản chỉ sở hữu năng lực chi trả yếu kém do nền tảng các nguồn thu từ thuế khá eo hẹp (với các chính quyền địa phương), dư thừa công suất và lợi nhuận thấp (với các doanh nghiệp nhà nước), bong bóng bất động sản xì hơi (với các doanh nghiệp phát triển bất động sản).

Nếu những rắc rối trong tương lai phát triển kinh tế dài hạn của Trung Quốc đơn thuần chỉ mang tính cơ cấu thì tương lai của đất nước chưa đến mức tàn khốc. Những cuộc cải cách hiệu quả có thể tái phân bổ nguồn lực một cách hữu hiệu giúp cho nền kinh tế có năng suất cao hơn. Tuy nhiên thành công của những cải cách đó lại gắn kết chặt chẽ với bản chất của nhà nước Trung Quốc và các thể chế chính trị của nó. Việc tạo ra của cải một cách bền vững chỉ có thể tồn tại ở các quốc gia nơi mà quyền lực chính trị bị giới hạn bởi luật pháp, quyền sở hữu tư nhân được bảo đảm thực sự và có nhiều phương tiện để tiếp cận các cơ hội. Ở các quốc gia bị chi phối bởi một nhóm nhỏ cầm quyền thì xảy ra điều ngược lại: những kẻ nắm quyền điều hành chính trị sẽ trở thành dã thú, sử dụng những công cụ cưỡng bách của quốc gia để bòn rút của cải từ xã hội, bảo vệ đặc quyền của mình và làm nghèo người dân.[7]

Quả thực các chính sách kinh tế của ĐCSTQ đã thay đổi tới mức không thể nhận ra kể từ thời Mao. Tuy nhiên, đảng và nhà nước Trung Quốc còn chưa từ bỏ bản năng dã thú cùng các thể chế của mình. Bất chấp những luận điệu về tôn trọng thị trường và quyền sở hữu, thực tế chỉ đạo và chính sách của các tầng lớp lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc cho thấy họ không tôn trọng quyền sở hữu tư nhân và cũng chẳng muốn bảo vệ nó. Bằng chứng về sự thiếu vắng mong muốn hạn chế những bản năng và thèm muốn dã thú của nhà nước độc đảng lãnh đạo chính là việc giới lãnh đạo chóp bu không dấu diếm sự thù hằn đối với bất kỳ ý tưởng nào về chủ nghĩa hợp hiến mà bản chất của nó là đặt ra những giới hạn phải được thực thi đối với chính quyền và những người nắm quyền lực. ĐCSTQ khước từ mọi giới hạn đối với quyền lực của mình và trên thực tế đã dẫn đến việc Trung Quốc không thể có thể chế tư pháp độc lập hoặc các tổ chức điều hành đủ năng lực thực thi pháp luật. Bởi lẽ, các nền kinh tế thị trường đích thực không thể hoạt động nếu thiếu những thể chế và tổ chức như vậy, cho nên rõ ràng là một khi đảng tự đặt mình cao hơn luật pháp thì cải cách kinh tế theo hướng kinh tế thị trường là điều bất khả thi.

Nhiều nhà quan sát lập luận rằng chế độ độc đảng này tuy thế vẫn đủ năng lực thực hiện các cải cách mang tính thị trường với dẫn chứng là diễn biến lịch sử của thời kỳ sau Mao. Lý lẽ này đã bỏ qua một sự thật rất quan trọng đó là những cải cách sau Mao tuy tạo ra ấn tượng bề nổi nhưng nay đã cạn kiệt tiềm năng bên trong. Hơn thế nữa, cần phải hiểu rằng hệ thống Maoit kém hiệu quả tới mức dù chỉ một vài cải cách mang tính bộ phận đã có thể giải phóng sự gia tăng mạnh mẽ năng suất lao động, đặc biệt là trong một xã hội mà năng lượng kinh doanh của người dân còn đang bị sự khủng bố chuyên chế đè nén trong ba thập kỷ vừa qua. Điều quan trọng hơn là những cải cách từng phần đó còn chưa đi vào các bộ phận quan trọng trong nền móng kinh tế do ĐCSTQ lãnh đạo: đó là khu vực sở hữu nhà nước với những tài sản có năng suất cao nhất như ruộng đất, tài nguyên thiên nhiên, sản xuất điện, viễn thông, ngân hàng, các dịch vụ tài chính và công nghiệp nặng. Chắc chắn không phải khu vực kinh tế tư nhân năng động đang kìm hãm nền kinh tế Trung Quốc mà chính là các xí nghiệp quốc doanh kém hiệu năng vẫn tiếp tục được nhận hỗ trợ và tiêu phí dòng vốn quý giá.[8]

Cải cách kinh tế toàn diện và đích thực nếu được chấp nhận trên thực tế sẽ đe dọa phá vỡ nền móng đó. Khả năng nhiều nhất là nó sẽ xóa bỏ phần lớn sự kiểm soát hiện hữu đối với nền kinh tế và khối tài sản quốc gia khổng lồ của Trung Quốc, kết cục sẽ là sự sụp đổ về mặt tổ chức của ĐCSTQ. Đảng này cấp kinh phí và hỗ trợ một mạng lưới tổ chức hạ tầng cơ sở rộng khắp của mình – các đảng bộ, đảng ủy các cấp và chi bộ …thông qua số lượng lớn các quỹ đảng nhưng chính xác là bao nhiêu thì còn là một ẩn số. Phần lớn kinh phí cho các tổ chức và hoạt động của đảng được tài trợ từ ngân sách không minh bạch của nhà nước Trung Quốc. Nếu như ĐCSTQ từ bỏ sự kiểm soát nền kinh tế của mình và các khoản chi tiêu của chính phủ được minh bạch hóa thì đảng sẽ không còn nguồn tài chính để tồn tại. Sẽ không thể duy trì các đặc quyền và bổng lộc hậu hĩ của đảng ví như chăm sóc sức khỏe chất lượng cao, quỹ cho các hoạt động giải trí, nhà công vụ và còn nhiều khoản phụ cấp đối với các quan chức như là tiêu chuẩn được hưởng khi làm thành viên của câu lạc bộ tầng lớp tinh hoa.

Còn một hậu quả thảm khốc nữa của cải cách theo hướng thị trường đó là sự sụp đổ của hệ thống bảo trợ mà ĐCSTQ sử dụng để đảm bảo có được sự trung thành từ những người ủng hộ mình. Nền móng của hệ thống này là các doanh nghiệp nhà nước, các cơ quan kinh tế và các tổ chức điều hành do đảng kiểm soát. Nếu như cải cách định hướng thị trường dẫn tới tư nhân hóa thực sự các doanh nghiệp nhà nước (nhóm doanh nghiệp này sản xuất ít nhất cũng vào khoảng 1/3 GDP) thì ĐCSTQ sẽ không thể ban phát cho đội ngũ trung thành với mình bằng những hợp đồng và công việc béo bở và điều này đe dọa sẽ lấy đi sự ủng hộ của họ. Xin cung cấp thông tin rằng trong bản hướng dẫn chi tiết kế hoạch kinh tế của ĐCSTQ phát hành mùa Thu năm 2013, lãnh đạo đảng đã nhắc nhở đảng sẽ không bao giờ từ bỏ các doanh nghiệp nhà nước.

Như vậy, sự tiếp tục của các thể chế mang tính dã thú và bòn rút, cướp đoạt ở Trung Quốc đang ngăn chặn những cải cách thị trường triệt để, toàn diện và thành công. Tính bất khả thi của nhiệm vụ xây dựng một nền kinh tế thị trường đích thực được hậu thuẫn bởi nguyên tắc thượng tôn pháp luật có thể minh họa bằng câu ngạn ngữ Trung Quốc thâm thúy “dữ hổ mưu bì” có nghĩa là mặc cả với con hổ dữ để xin bộ da của nó. Triển vọng lâu dài cho sự tăng trưởng kinh tế Trung Quốc là đáng bi quan bởi vì khu vực tăng trưởng nhanh nhờ có cải cách từng phần và các nhân tố cũng như hoàn cảnh thuận lợi chỉ diễn ra một lần đang chấm dứt. Một sự tăng trưởng bền vững cho Trung Quốc sẽ đòi hỏi phải đại tu triệt để thể chế kinh tế và chính trị để đạt được hiệu quả cao hơn. Nhưng bởi lẽ bước đi quan trọng có tính quyết định này sẽ hủy hoại nền tảng lãnh đạo của ĐCSTQ cho nên khó có thể tin được rằng đảng sẽ tự sát về kinh tế và do đó cả về chính trị. Những ai còn chưa bị thuyết phục bởi lập luận này hãy nên đếm lại có bao nhiêu nhà độc tài trong lịch sử đã tự nguyện từ bỏ các đặc lợi cùng đặc quyền kiểm soát nền kinh tế của mình nhằm mục đích bảo đảm cho một tương lai thịnh vượng dài lâu của quốc gia.

Hướng tới đàn áp và chủ nghĩa dân tộc

Nếu như tình trạng kinh tế trì trệ trong dài hạn đã được khẳng định thì sự ủng hộ của tầng lớp trung lưu Trung Quốc đối với hiện trạng sẽ bị mai một. Thu nạp tầng lớp đang tăng trưởng nhanh này là một trụ cột chủ chốt nữa trong sách lược sinh tồn của ĐCSTQ thời kỳ sau biến cố Thiên An Môn, và điều này khả dĩ là nhờ vào sự bùng nổ kinh tế trong ¼ thế kỷ vừa qua. Kinh tế phát triển chậm lại chắc chắn sẽ giảm bớt cơ hội, kỳ vọng và hạn chế tính năng động đi lên đối với các thành viên của nhóm xã hội quan trọng này và sự chấp nhận vai trò lãnh đạo của ĐCSTQ từ nhóm này chỉ là ngẫu nhiên do vừa qua đảng đã mang đến sự phát triển kinh tế liên tục và đáng hài lòng.

Cùng với sự bốc hơi của (chất keo gắn) sự đoàn kết, thống nhất trong giới lãnh đạo cấp cao, nguy cơ kinh tế trì trệ và thái độ xa lánh rất có thể xảy ra của giới trung lưu thì mô hình hậu Thiên An Môn chỉ còn có 2 cột trụ: đó là đàn áp và kích động chủ nghĩa dân tộc. Các chế độ chuyên chế ngày nay vì thiếu tính chính danh trong công chúng (mà đáng ra phải đạt được qua quá trình cạnh tranh chính trị) chủ yếu dùng ba phương tiện để giữ quyền lực của mình. Một là mua chuộc quần chúng bằng các lợi ích vật chất. Hai là đàn áp nhân dân bằng bạo lực và khủng bố. Ba là kêu gọi tình cảm dân tộc của họ. Ở những chế độ chuyên chế tinh vi và thành công những kẻ cầm quyền thường dựa vào tính chính danh có được nhờ thành tích phát triển kinh tế (mua chuộc) hơn là sử dụng nỗi sợ hãi và chủ nghĩa sô vanh hiếu chiến. Nguyên nhân chính là đàn áp thì tốn kém mà chủ nghĩa dân tộc thì có thể trở nên nguy hiểm. Trong thời kỳ hậu Thiên An Môn có thể tin chắc rằng ĐCSTQ đã sử dụng cả 3 phương tiện, chủ yếu vẫn phụ thuộc vào thành tích phát triển kinh tế nhưng vẫn dùng phương tiện đàn áp và chủ nghĩa dân tộc một cách có chọn lọc làm các biện pháp cầm quyền dự phòng.

Tuy nhiên, những xu hướng kể từ khi Tập Cận Bình lên cầm quyền vào cuối năm 2012 cho thấy đàn áp và chủ nghĩa dân tộc được coi là đóng vai trò ngày càng nổi bật trong chiến lược sinh tồn của ĐCSTQ. Lời giải thích hiển nhiên là tăng trưởng kinh tế không chắc chắn của Trung Quốc đang gây nên căng thẳng xã hội và bào mòn sự ủng hộ của quần chúng đối với ĐCS, và như vậy buộc chế độ phải ngăn cản những thách thức tiềm ẩn từ xã hội bằng sức mạnh và chuyển hướng sự chú ý của công chúng sang chủ nghĩa dân tộc. Vậy mà nhiều nhà quan sát đã bỏ qua lời giải thích có giá trị này.

Một chiến lược sinh tồn phụ thuộc vào việc đem lại tăng trưởng kinh tế nhằm duy trì tính hợp pháp vốn dĩ không bền vững không chỉ bởi lẽ tăng trưởng kinh tế là điều không thể bảo đảm chắc chắn và sự kỳ vọng của công chúng thì bao giờ cũng gia tăng nên cũng không thể luôn luôn đáp ứng được mà còn vì sự tăng trưởng kinh tế bền vững sẽ làm phát sinh những thay đổi kinh tế- xã hội mang tính cơ cấu. Và chính những thay đổi đó ắt sẽ đe dọa độ bền vững của chế độ chuyên chế như các nghiên cứu xã hội học và lịch sử các cuộc chuyển đổi dân chủ đã cho thấy.

Các nhà nước chuyên chế khi buộc phải chấp thuận tính chính danh dựa trên thành tích phát triển thì mặc nhiên là chúng sẽ thua cuộc bởi lẽ những đổi thay kinh tế- xã hội do tăng trưởng kinh tế đem lại sẽ củng cố năng lực tự trị của các lực lượng xã hội ở thành thị, ví dụ như các nhà kinh doanh tư nhân, trí thức, người làm nghề, các tín đồ tôn giáo, công nhân phổ thông nhờ trình độ học vấn cao hơn, tiếp cận với thông tin dễ dàng hơn, tích lũy được tài sản cá nhân nhiều hơn và năng lực tổ chức hoạt động tập thể cũng được cải thiện. Nhiều công trình nghiên cứu hàn lâm đã chỉ ra sự tương quan chặt chẽ giữa trình độ phát triển kinh tế với sự hiện diện của dân chủ cũng như giữa thu nhập gia tăng với khả năng sụp đổ của các chế độ chuyên chế.[9] Trong thế giới ngày nay, mối tương quan tích cực giữa tài sản (được tính bằng GDP theo đầu người) và dân chủ có thể được thể hiện trong biểu đồ dưới đây và nó cho thấy tỷ lệ phần trăm các nền dân chủ (được định nghĩa bởi tổ chức Freedom House) tăng đều đặn cùng với mức tăng của thu nhập. Số các quốc gia dân chủ một phần cũng giảm khi thu nhập tăng lên. Sự phân bố các quốc gia không dân chủ hoặc độc tài trên biểu đồ đã hình thành nên đồ thị hình chữ U. Trong khi có nhiều hơn các chế độ độc tài tồn tại ở những nước nghèo hơn (40% tổng số các quốc gia, những nước vốn có thu nhập trên đầu người thấp nhất thế giới) thì sự hiện diện đồng thời của chúng ở trong top 40% các quốc gia ở trên cùng của thang thu nhập dường như đã phản bác lại nhận định cho rằng sự thịnh vượng và dân chủ có tương quan cùng chiều (nguyên văn tương quan dương tính – ND). Tuy nhiên khi xem xét kỹ hơn số liệu sẽ thấy hầu hết các quốc gia giàu có nhưng nằm dưới chế độ độc tài đều là những nước sản xuất dầu mỏ, nơi mà giới tinh hoa cầm quyền có đủ năng lực tài chính để mua chuộc người dân của mình để họ chấp thuận chế độ chuyên chế.[10]

quintiles-300x300

Nguồn: Tính toán sử dụng dữ liệu thu nhập dựa trên sức mua trên đầu người (PPP) do Ngân hàng Thế giới cung cấp. Chỉ số tự do do Freedom House cung cấp.

Những nhà cầm quyền Trung Quốc nếu như nhìn qua biểu đồ sẽ cảm thấy lo lắng cho triển vọng trong trung và dài hạn của mình. Hiện nay 87 quốc gia có thu nhập theo đầu người (chuẩn PPP – sức mua tương đương – ND) cao hơn Trung Quốc và 58 quốc gia trong số đó được đánh giá là có dân chủ, 11 quốc gia được Freedom House sếp hạng “tự do một phần” và 18 quốc gia bị coi là độc tài (nguyên văn là “không tự do” theo Freedom House). Tuy nhiên trong số 18 quốc gia “không tự do” có thu nhập theo đầu người cao hơn Trung Quốc thì có tới 16 quốc gia sản xuất dầu mỏ (Belarus được tính trong nhóm này bởi vì được Nga trợ cấp đáng kể nhu cầu năng lượng), Hai quốc gia không sản xuất đầu mỏ là Thái Lan (chính quyền quân sự độc tài đã lật đổ chính quyền bán dân chủ vào năm 2014) và Cuba (cũng là một quốc gia Leninit độc đảng, độc tài). Trong số 11 quốc gia tự do một phần Mexico và Malaysia là những nhà sản xuất dầu mỏ đáng kể trong khi Cô-oét và Venezuela là những nước sản xuất dầu mỏ tiêu biểu. Điều làm cho các lãnh đạo của ĐCSTQ có thêm lý do để lo ngại đó là thu nhập tính theo đầu người của Trung Quốc vào khoảng 13.216 đô la (PPP) năm 2014 cũng chỉ bằng mức của Đài Loan và Hàn Quốc vào cuối những năm 1980 khi cả hai quốc gia này bắt đầu tiến trình dân chủ hóa.[11] Nếu như kinh nghiệm chuyển đổi thể chế ở các nước có thu nhập trên trung bình như Đài Loan và Hàn Quốc có thể được đem ra tham khảo và áp dụng thì ĐCSTQ cần phải tính đến nhu cầu và những sự vận động xã hội đang dâng cao để tiến hành những thay đổi chính trị trong thập kỷ tới (một vài tín hiệu của sự vận động này đã được ghi nhận).

Hàm ý duy nhất có thể rút ra từ phân tích này đó là trừ khi Trung Quốc muốn đi theo tấm gương của Cuba và duy trì một nền kinh tế đóng để đảm bảo sự tồn vong của chế độ độc đảng, quốc gia này sẽ phải đối mặt với tình trạng lợi thế ngày một suy giảm trong nỗ lực giữ nguyên quyền lực (miễn là Trung Quốc một cách kỳ diệu không trở thành một nước giống như Ả rập Saudi). Nhưng bởi lẽ Trung Quốc sẽ không bao giờ là quốc gia dầu lửa nên ĐCSTQ vì sự tồn vong của mình trong dài hạn còn có cơ hội khai mở một số hình thái của thể chế chính trị có cạnh tranh và trở thành một chế độ “ tự do một phần” – và đây là một bước trọng yếu tiến về phía trước so với chủ nghĩa Leninnit hiện nay. Một cách khác, Trung Quốc có thể chống lại ngay cả những cải cách khiêm tốn nhất và đặt cược sự tồn vong của mình vào việc leo thang đàn áp và nuôi dưỡng chủ nghĩa dân tộc.

Đánh giá những chính sách và biện pháp được ban lãnh đạo hiện nay của ĐCSTQ thông qua thì dường như đảng này có ý định đặt cược chống lại lịch sử. Trong 3 năm gần đây đảng đã rất nỗ lực gia tăng đàn áp. Trong số các bước đi đáng để ý nhất: ĐCSTQ đã mạnh mẽ thắt chặt kiểm duyệt Internet, truyền thông xã hội, báo chí, thông qua Luật về an ninh quốc gia chủ yếu nhắm tới việc ngăn chặn các tổ chức phi chính phủ để bảo đảm an ninh cho chế độ, phá hủy hàng trăm cây Thánh giá của nhà thờ Thiên Chúa nhằm hạn chế tự do tín ngưỡng, tăng cường kiểm soát tư tưởng trong các ký túc xá trường Đại học, cao đẳng và bắt bớ hàng chục luật sư nhân quyền, nhà hoạt động vì quyền công dân trên cơ sở các bằng chứng ngụy tạo. Theo nhiều cách nhìn nhận, mức độ đàn áp của ngày hôm nay là cao hơn bất kỳ giai đoạn nào kể từ cuộc trấn áp Thiên An Môn.

Cũng không kém phần đáng lo ngại và còn nguy hiểm hơn đó là những tuyên bố dân tộc chủ nghĩa có tính leo thang của Trung Quốc. ĐCSTQ nhận thức mọi điều nhưng lại từ bỏ chủ trương đối ngoại của Đặng Tiểu Bình là dấu mình chờ thời và không đối đầu để ủng hộ cho một chiến lược đối ngoại khoe cơ bắp và điều này đã làm cho Trung Quốc đi theo một tiến trình xung đột với Hoa Kỳ. Bằng chứng về lời kêu gọi mới đây kích động chủ nghĩa dân tộc và chính sách ngoại giao quả quyết của Bắc Kinh có thể tìm thấy trong màn diễu binh lần đầu tiên kỷ niệm sự kiện bại trận của Nhật Bản trong Thế chiến II (mặc dù Trung Quốc và ĐCSTQ chỉ đóng vai trò rất phụ trong cuộc chiến đó), đó còn là chiến dịch tuyên truyền kỷ niệm “giấc mơ Trung Hoa” (nội dung chủ yếu là sự phục hưng của Trung Quốc với vị thế một siêu cường) và đòi hỏi gần như công khai vị thế ngang hàng với Hoa Kỳ (được diễn đạt bằng ngôn từ “quan hệ kiểu mới giữa các siêu cường” trong tuyên bố của Bắc Kinh), những cuộc tấn công trên mạng không ngơi nghỉ nhằm vào các cơ quan chính phủ và các cơ sở thương mại Hoa Kỳ cùng với những cuộc khiêu khích và thủ đoạn gây hấn đẩy tình hình tới miệng hố chiến tranh ở Biển Hoa Đông và Nam Trung Hoa (Biển Đông – ND). Cụ thể là thiết lập vùng nhận dạng hàng không ADIZ trên vùng trời đảo Senkaku, cải tạo hàng loạt bãi chìm và xây dựng trên các đảo thuộc vùng lãnh hải còn đang tranh chấp ở Biển Đông).

Nếu như ĐCSTQ tin rằng leo thang đàn áp và chủ nghĩa dân tộc sẽ giúp cho đảng duy trì quyền lực trong giai đoạn đang có hỗn loạn trong giới lãnh đạo cấp cao, kinh tế suy thoái và căng thẳng xã hội dâng cao thì đảng cũng nên nhìn nhận những rủi ro to lớn và cái giá phải trả cho chiến lược sinh tồn mới này. Ngoài việc khiến Trung Quốc bị lạc hậu, chiến lược này tỏ ra không bền vững và nguy hiểm. Trấn áp có thể có tác dụng trong một thời điểm nhưng các chế độ chuyên chế quá phụ thuộc vào nó sẽ phải sẵn sàng gia tăng việc sử dụng bạo lực liên tục và áp dụng những biện pháp hà khắc để ngăn cản các lực lượng chống đối.

Đàn áp có thể là không tốt cho việc kinh doanh, vì khi đó nhà cầm quyền buộc phải ngăn chặn dòng thông tin và tự do kinh tế để bảo đảm an ninh cho chế độ (quả thực, các hãng phương Tây đang phàn nàn về những bất tiện do “Vạn lý Tường lửa” gây ra). Gia tăng mức độ đàn áp trong lúc kinh tế đang chìm đắm trong đình đốn sẽ gây căng thẳng và áp lực lên các nguồn lực của ĐCSTQ bởi lẽ việc trấn áp đòi hỏi phải duy trì mạng lưới tốn kém những kẻ nội gián chuyên cung cấp thông tin, công an chìm, nhân viên kiểm duyệt và các lực lượng bán vũ trang. Đàn áp còn làm phát sinh những chi phí khổng lồ về đạo đức và có thể nhóm lửa cho những cuộc tranh luận bên trong chế độ.

Hãy đặt câu hỏi một cách rõ ràng: liệu Trung Quốc có thực sự sẵn sàng để trở thành một Bắc Triều Tiên khác?

Sử dụng chủ nghĩa dân tộc và khoe cơ bắp có thể đem lại những lợi ích chính trị nhất thời nhưng ĐCSTQ sẽ phải trả giá bằng an ninh của mình trong dài hạn. Một trong những lựa chọn chiến lược khôn ngoan nhất của Đặng Tiểu Bình là phát triển các mối quan hệ bạn bè với phương Tây do Hoa Kỳ lãnh đạo nhằm thúc đẩy chương trình hiện đại hóa Trung Hoa. Trong thời kỳ hậu Đặng Tiểu Bình hai nhân vật tiền nhiệm của họ Tập là Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào cũng đã học bài học cốt tử từ sự sụp đổ của Liên Xô: xung đột chiến lược với Hoa Kỳ sẽ gây nguy hiểm cho chính sự tồn vong của ĐCSTQ. Chi phí cho một cuộc chạy đua vũ trang sẽ ở mức không chịu đựng nổi và sự thù địch công khai trong quan hệ Trung – Mỹ sẽ phá hủy mối quan hệ kinh tế song phương.

Không rõ ban lãnh đạo ĐCSTQ có nhận thức được những rủi ro mà chiến lược sinh tồn mới đang hoàn thiện của họ sẽ mang lại hay không. Nhưng nếu các thành viên trong ban lãnh đạo tin chắc rằng chỉ có chiến lược đó mới cứu vãn được sự lãnh đạo của đảng vốn đang bị đe dọa bởi sự sụp đổ của những trụ cột quan trọng trong mô hình hậu Thiên An Môn thì rất có thể họ sẽ tiếp tục đường lối hiện nay. Và thật mỉa mai, đường lối đó, nếu như phân tích ở trên là đúng, thì chắc chắn sẽ thúc đẩy thay vì ngăn chặn sự kết thúc của ĐCSTQ.

Minxin Pei (Bùi Mẫn Hân) là giáo sư về quản trị chính quyền tại Đại học Claremont McKenna và là tác giả của cuốn China’s Crony Capitalism: The Dynamics of Regime Decay (sắp xuất bản, Harvard University Press).

Bản dịch được đăng lần đầu trên Viet-studies, Nghiencuuquocte.org đăng lại có biên tập bổ sung một vài chỗ.

—————————-

[1] The literature on China’s “resilient authoritarianism” is large. Representative works include Andrew J. Nathan, “Authoritarian Resilience,” Journal of Democracy (January 2003); David L. Shambaugh, China’s Communist Party: Atrophy and Adaptation(University of California Press, 2008).

[2] Andrew Nathan acknowledged in 2013 that, “The consensus is stronger than at any time since the 1989 Tiananmen crisis that the resilience of the authoritarian regime in the People’s Republic of China (PRC) is approaching its limits.” Nathan, “Foreseeing the Unforeseeable,” in Andrew Nathan, Larry Diamond, and Marc Plattner, eds., Will China Democratize? (Johns Hopkins University Press, 2013); David Shambaugh published a much-noted long essay, “The Coming Chinese Crackup,” in the Wall Street Journal on March 6, 2015 arguing that the endgame for the CPC regime has begun.

[3] Samuel P. Huntington, The Third Wave: Democratization in the Late Twentieth Century (University of Oklahoma Press, 1993); Guillermo O’Donnell and Philippe C. Schmitter, Transitions from Authoritarian Rule: Tentative Conclusions about Uncertain Democracies (Johns Hopkins University Press, 2013).

[4] Aviezer Tucker, “Why We Need Totalitarianism”, The American Interest (May/June 2015).

[5] Cai Fang Wang Dewen, Impacts of Internal Migration on Economic Growth and Urban Development in China,” in Josh DeWind and Jennifer Holdaway, eds., Migration and Development Within and Across Borders (The Social Science Research Council, 2008.)

[6] Xin bổ sung thêm một ý giải thích vì sao tiêu dùng hộ gia đình nói riêng và thị trường trong nước ở Trung Quốc luôn ở mức thấp đó là do chính sách hộ khẩu và an sinh xã hội mang tính kỳ thị người nhập cư từ nông thôn ra thành thị khiến họ phải gia tăng tiết kiệm, hạn chế tiêu dùng để đề phòng khi ốm đau, hết tuổi lao động thì còn có nguồn dự trữ – ND.

[7] The literature on the predatory state and extractive institutions is vast. The most influential works are Daron Acemoğlu and James Robinson, Why Nations Fail (Crown Publishing, 2012); Douglass North, Institutions, Institutional Change and Economic Performance(Cambridge University Press, 1990).

[8] The huge inefficiency of state-owned enterprises, as compared with the dynamism of the Chinese private sector, is detailed in Nick Lardy, Markets over Mao: The Rise of Private Business in China (Peterson Institute for International Economics, 2014).

[9] Seymour Martin Lipset, “Some Social Requisites of Democracy: Economic Development and Political Legitimacy,” American Political Science Review (March 1959); Adam Przeworski, Democracy and Development: Political Institutions and Well-Being in the World, 1950–1990 (Cambridge University Press, 2000).

[10] Academic research has also established a strong link between oil and dictatorship. See Michael Ross, “Does Oil Hinder Democracy?” World Politics (April 2001).

[11] Yu Liu and Dingding Chen, “Why China Will Democratize,” Washington Quarterly (Winter 2012).

[efb_likebox fanpage_url=”DAnghiencuuquocte” box_width=”420″ box_height=”” locale=”en_US” responsive=”0″ show_faces=”1″ show_stream=”0″ hide_cover=”0″ small_header=”0″ hide_cta=”0″ ]