Nguồn: Jakub Grygiel, “The Right Way to Quickly End the War in Ukraine,” Foreign Affairs, 25/07/2024
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Thay vì từ bỏ Kyiv, Washington nên cung cấp công cụ để Ukraine giành chiến thắng.
Người Mỹ đã rơi vào bế tắc ở Ukraine. Cách tiếp cận từng bước của Tổng thống Joe Biden không hiệu quả. Thay vào đó, nó đã dẫn đến một cuộc chiến tiêu hao kéo dài và bi thảm. Thành tích chững lại của Ukraine trong năm qua đã làm dấy lên viễn cảnh nghiệt ngã về một chiến thắng của Nga, khiến Kyiv sụp đổ trước đế chế của Moscow.
Cựu Tổng thống Donald Trump đã hứa sẽ thay đổi cách tiếp cận của Mỹ nếu ông tái đắc cử vào tháng 11, đồng thời nhấn mạnh rằng ông có thể kết thúc chiến tranh “trong 24 giờ.” Và người bạn đồng hành của Trump, Thượng nghị sĩ Mỹ J. D. Vance, đã viết rằng Ukraine nên triển khai một “chiến lược phòng thủ” để “bảo toàn nhân lực quân sự quý giá của mình, cầm máu và dành thời gian để bắt đầu các cuộc đàm phán.” Giải pháp mà cả Trump và Vance dường như đang ủng hộ là một giải pháp thương lượng cho phép Washington tập trung sự chú ý và nguồn lực vào nơi khác.
Chiến tranh cần phải kết thúc – và kết thúc nhanh chóng. Câu trả lời không phải là cắt toàn bộ viện trợ của Mỹ hay vội vàng đi đến một thỏa thuận không cân xứng với Tổng thống Nga Vladimir Putin. Mỹ vẫn có thể thoát khỏi tình thế không thể giải quyết được và tránh để Nga giành chiến thắng. Để ngăn các khoản chi tiêu không giới hạn của Mỹ và bảo vệ nền độc lập và an ninh của Ukraine, Mỹ và các đồng minh cần cho Kyiv một cơ hội nghiêm túc cuối cùng để giành chiến thắng – được định nghĩa không phải là quay trở lại biên giới năm 2013 của Ukraine (như Kyiv mong muốn) mà là một giải pháp bền vững, khôi phục lại biên giới năm 2021.
Để đạt được kết quả đó, Washington và các đồng minh cần cải thiện đáng kể và nhanh chóng vị thế quân sự của Ukraine với một lượng lớn vũ khí – và không đặt ra hạn chế nào trong việc sử dụng chúng. Cơ hội hòa bình thực tế nhất sẽ đến nếu quân đội Ukraine có thể phát động một đợt tấn công quyết định đẩy quân Nga quay trở lại ranh giới trước năm 2022.
Một tổng thống mới của Mỹ có thể trở thành chất xúc tác cho sự thay đổi chính sách để biến điều này thành hiện thực. Chẳng hạn, chính quyền mới của Trump có thể nắm bắt cơ hội để báo hiệu sức mạnh của Mỹ và chấm dứt xung đột, củng cố danh tiếng quốc tế của Mỹ, và cho phép Washington chuyển sang các ưu tiên khác. Nhưng bất kể ai bước chân vào Nhà Trắng, việc tăng cường viện trợ quân sự không hạn chế trong thời gian ngắn sẽ mang lại cơ hội tốt nhất cho hòa bình lâu dài ở biên giới châu Âu.
CUỘC CHIẾN KHÔNG HỒI KẾT
Chiến lược hiện tại của chính quyền Biden không bền vững đối với cả Mỹ lẫn Ukraine. Năm 2022, sau khi Nga tấn công và Ukraine thể hiện quyết tâm chống trả đáng kể, Washington và một số đồng minh đã bắt đầu gửi viện trợ quân sự cho Kyiv, đặt ra những hạn chế về cách thức và địa điểm mà các lực lượng Ukraine có thể sử dụng những loại vũ khí tiên tiến hơn. Họ lo ngại rằng một phản ứng kiên quyết hơn sẽ khiến Nga leo thang, nhiều khả năng sẽ mở rộng xung đột ra ngoài Ukraine và khiến phương Tây gặp nguy hiểm. Việc Putin đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân đã khiến các quan chức Mỹ và châu Âu khiếp sợ đến nỗi dù họ tuyên bố tìm kiếm một chiến thắng cho Ukraine, nhưng trên thực tế, họ chỉ cung cấp hỗ trợ vừa đủ để giữ cho Kyiv không bị sụp đổ trước sự tấn công dữ dội của Nga. Mục tiêu rõ ràng không phải là đánh bại Nga trên chiến trường mà là duy trì sự tồn tại của Ukraine “chừng nào còn cần thiết” – nghĩa là hy vọng sẽ đến một ngày Moscow kết luận rằng việc gây hấn thêm sẽ là tự chuốc lấy thất bại và tự kết thúc chiến tranh.
Hơn hai năm tham chiến, Kyiv vẫn chưa gục ngã, nhưng các đối tác phương Tây cũng không cung cấp cho họ công cụ để giành chiến thắng. Một cuộc chiến tiêu hao kéo dài có thể sẽ kết thúc bằng sự sụp đổ của Ukraine. Kyiv không có đủ nhân lực để gửi quân tiếp viện đến các chiến hào trong những năm tới, và ở cách xa tiền tuyến, phần còn lại của đất nước đang gặp khó khăn. Ba phần tư doanh nghiệp Ukraine đang đối mặt với tình trạng thiếu lao động vì di cư và nghĩa vụ quân sự (và những thương vong kéo theo đó). Ngành nông nghiệp mất đi diện tích đất trồng màu mỡ: đối với một số loại cây trồng, diện tích đất thu hoạch đã giảm khoảng 1/3. Việc mất các cảng, chẳng hạn như Mariupol, đã gây ra vấn đề nghiêm trọng cho các nhà sản xuất muốn xuất khẩu. Hồi tháng 2, một báo cáo do Ngân hàng Thế giới đồng tài trợ ước tính rằng việc xây dựng lại nhà ở, cơ sở hạ tầng và ngành công nghiệp của Ukraine sẽ cần khoảng nửa nghìn tỷ đô la. Theo thời gian, tình hình sẽ chỉ trở nên tồi tệ hơn.
Và thời gian cũng không đứng về phía các đối tác phương Tây của Ukraine. Các nước châu Âu đã tuyên bố rằng cuộc chiến của Nga là mối đe dọa sống còn đối với lục địa này, nhưng các khoản đầu tư quân sự gần đây của họ vẫn rất khiêm tốn và họ vẫn rất chần chừ không muốn giải ngân những khoản tiền lớn để hỗ trợ nền kinh tế Ukraine. Ngoại lệ là các quốc gia ở tiền tuyến phía đông châu Âu: Ba Lan sẽ chi hơn 4% GDP trong năm nay, và Phần Lan, một thành viên mới của NATO, có kế hoạch tăng gấp đôi sản lượng đạn pháo vào năm 2027. Nhưng ngay cả những quốc gia này cũng buộc phải nhận ra rằng với mỗi quả đạn pháo họ gửi đến Ukraine đang suy yếu thì lực lượng của chính họ sẽ mất đi một quả đạn có sẵn. Nếu Nga đạt được thêm lợi thế ở Ukraine và tăng cường các mối đe dọa đối với phương Tây, những quốc gia này có lẽ sẽ không còn chấp nhận sự đánh đổi như vậy nữa.
Đối với Mỹ, việc tài trợ cho một cuộc xung đột kéo dài sẽ không mang lại lợi ích gì. Chiến lược cung cấp viện trợ tăng dần của Biden sẽ không ngăn được sự hủy diệt sau cùng của Ukraine và còn khiến nước Mỹ sa lầy vào một cuộc chiến không có con đường dẫn đến chiến thắng. Nó cũng không bền vững về mặt chính trị: sau hàng thập kỷ để xảy ra “những cuộc chiến không hồi kết” không được lòng dân, các nhà lãnh đạo Mỹ không còn có thể hứa hẹn về các khoản chi tài chính và cung cấp vũ khí vô thời hạn trên cơ sở một chiến lược không có triển vọng thành công.
Mỹ cũng đang gặp phải những rủi ro chiến lược lớn hơn khi chỉ hỗ trợ vũ khí cho Ukraine theo kiểu trang bị tăng dần. Moscow có thể dựa vào nền kinh tế chiến tranh của mình và không chịu ngồi vào bàn đàm phán chừng nào họ còn tin rằng họ có thể khiến Ukraine phải đầu hàng và tồn tại lâu hơn sự hỗ trợ của phương Tây dành cho Kyiv. Về phần mình, Ukraine cũng không thể đàm phán từ vị thế yếu kém hiện tại, sau khi mất lãnh thổ và quyền tiếp cận Biển Azov, một tuyến đường thủy quan trọng đối với xuất khẩu nông sản của nước này, và thiếu phương tiện để đảo ngược cả hai tổn thất. Điều này có nghĩa là chiến tranh sẽ kéo dài – và nó càng kéo dài thì Nga càng có nhiều thời gian để tạo ra vấn đề cho châu Âu và Mỹ ở những khu vực khác trên thế giới. Moscow có thể mở rộng hợp tác với Triều Tiên bằng cách chia sẻ công nghệ vệ tinh và tên lửa đạn đạo, huy động thêm lực lượng quân sự để gây bất ổn cho các quốc gia ở châu Phi cận Sahara và khu vực Địa Trung Hải rộng lớn hơn, cũng như gây nhiễu tín hiệu GPS trên một khu vực ngày càng rộng lớn ở châu Âu. Trong khi đó, Trung Quốc đang xây dựng quân đội của riêng mình, và họ có thể lợi dụng sự bất ổn kéo dài ở châu Âu để tiến lên ở Thái Bình Dương.
Đồng thời, Washington và các đối tác của họ không nên quá lo lắng về việc khiêu khích người Nga. Nỗi sợ hãi của phương Tây về việc Nga leo thang chiến tranh đã bị phóng đại. Trong suốt thời kỳ cầm quyền của mình, Putin đã cẩn thận để tránh xảy ra xung đột trực tiếp với phương Tây, có lẽ vì ý thức được sự kém phát triển về kinh tế và quân sự của Nga. Giờ đây, Moscow quan tâm đến việc giới hạn cuộc chiến ở Ukraine vì họ sẽ khó có thể sánh ngang với hỏa lực và lực lượng tổng hợp của phương Tây trong một cuộc chiến mở rộng. Nga có thể đe dọa leo thang nhưng sẽ lùi bước nếu phải đối đầu với sức mạnh. Tuy nhiên, vẫn có những giới hạn đối với những gì Mỹ và các đồng minh nên làm; cụ thể là họ không nên thách thức quân đội Nga trên tiền tuyến bằng cách gửi quân của mình tới Ukraine.
HÀNH ĐỘNG QUYẾT ĐỊNH
Thay vì kéo dài cuộc chiến này, mục tiêu của Mỹ nên là kết thúc nó nhanh chóng, giúp Ukraine đánh bại Nga và trong quá trình đó răn đe Moscow không được theo đuổi tham vọng đế quốc hơn nữa. Ổn định châu Âu trước tiên sẽ cho phép Washington tập trung nỗ lực vào khu vực châu Á, nơi họ đang phải đối mặt với mối đe dọa đang đến từ Trung Quốc, và giúp họ sắp xếp chiến lược của mình thay vì mạo hiểm đối đầu với hai cường quốc xét lại cùng một lúc.
Cách hợp lý nhất để đạt được mục tiêu này là tăng cường vũ khí cho Ukraine và không đặt bất kỳ hạn chế nào đối với việc sử dụng chúng. Ukraine cần pháo binh, thiết giáp, và không lực, đồng thời nước này phải có khả năng tấn công các mục tiêu quân sự ở Nga, như sân bay, kho đạn dược và nhiên liệu, cũng như các nhà máy quân sự. Bằng cách dỡ bỏ các hạn chế sử dụng vũ khí của phương Tây, đặc biệt là tên lửa tầm trung, Washington sẽ tạo cơ hội cho Kyiv làm suy yếu lực lượng Nga và ngăn chặn các cuộc tấn công quy mô lớn vào các thành phố và cơ sở hạ tầng của Ukraine. Quả thật, Ukraine không thể tự vệ từ phía sau chiến hào và với nguồn cung cấp các thiết bị phòng không đắt tiền đang ngày càng cạn kiệt.
Sự tăng cường vũ khí này sẽ mang lại cho Ukraine cơ hội cuối cùng để đạt được bước đột phá về mặt chiến thuật nhằm khôi phục hoàn toàn hoặc xấp xỉ đường biên giới lãnh thổ trước năm 2022. Từ vị trí này, các lực lượng Ukraine có thể tiếp tục đe dọa những thành quả mà Nga đạt được trong cuộc xâm lược năm 2014, đặc biệt là Crimea. Dù khát vọng giành lại biên giới trước năm 2014 của Kyiv là điều dễ hiểu, nhưng những tổn thất khủng khiếp và sự kiệt quệ của toàn đất nước khiến một định nghĩa ít tham vọng hơn về chiến thắng quân sự trở nên thực tế hơn nhiều.
Bằng cách làm suy yếu và đẩy lùi lực lượng Nga ra khỏi những vùng lãnh thổ mà họ đã chiếm từ đầu năm 2022, Kyiv sẽ giành được cho mình những lựa chọn chính trị. Một thành tích quân sự như vậy có thể gây ra tổn thất đủ lớn về vật chất và danh tiếng để buộc Nga phải ngồi vào bàn đàm phán. Ngay cả khi không có đàm phán, điều mà trong mọi trường hợp vẫn có thể không dập tắt được mong muốn khôi phục đế chế ở châu Âu của Moscow, một chiến thắng nhanh chóng và mang tính quyết định trên chiến trường sẽ gây thiệt hại đủ lớn cho lực lượng Nga để Ukraine có thời gian xây dựng lại cơ sở hạ tầng và công nghiệp, giành lại những vùng đất màu mỡ cho sản xuất nông nghiệp, và tăng cường năng lực quân sự để ngăn chặn các cuộc tấn công tiếp theo của Nga.
Mỹ và các đồng minh sẽ có được nguồn lực để thực hiện chiến lược này vào thời điểm cuộc bầu cử Mỹ vào tháng 11 trôi qua hoặc một tổng thống mới nhậm chức. Đến đầu năm 2025, năng lực sản xuất của phương Tây sẽ tăng lên đủ để cung cấp đủ số lượng đạn pháo cho lực lượng Ukraine. Các nhà máy của Mỹ đang trên đà sản xuất 80.000 quả đạn mỗi tháng vào cuối năm 2024 và sẽ đạt mức 100.000 quả đạn mỗi tháng vào năm 2025. Thêm vào đó là khoảng 100.000 quả đạn trở lên mỗi tháng mà ngành công nghiệp châu Âu dự kiến sẽ sản xuất vào cuối năm 2025. Và Ukraine không thể chỉ phòng thủ các vị trí của mình, vốn cần khoảng 75.000 quả đạn mỗi tháng, nhưng họ cũng có thể bắt đầu các chiến dịch tấn công. Quân đội Mỹ cũng có rất nhiều thiết bị dư thừa, bao gồm các mẫu xe tăng và các phương tiện cũ đang được cất giữ trong kho. Cho đến nay, Mỹ chỉ mới gửi 31 xe tăng đến Ukraine, chủ yếu là để buộc Berlin phải cung cấp xe tăng, nhưng vẫn còn hàng trăm xe tăng khác trong kho có thể được tân trang lại và chuyển đi. Ukraine rõ ràng cần nhiều hơn những gì họ đã nhận được, vì tổn thất sẽ nhanh chóng làm cạn kiệt kho vũ khí của nước này. Trong những tháng tới, một số lượng nhỏ máy bay chiến đấu phương Tây nằm trong tay các phi công Ukraine cũng dự kiến tham gia chiến đấu, nhưng các nước châu Âu vẫn còn có thể chuyển giao cho Kyiv nhiều máy bay hơn nữa. Ví dụ, Hy Lạp đang xem xét tặng hàng chục máy bay phản lực.
Dù Washington và các đồng minh không thể gửi binh sĩ của riêng mình tới Ukraine, nhưng họ có thể cung cấp huấn luyện quân sự bổ sung cho quân đội Ukraine. Nhân lực là một vấn đề ngày càng lớn đối với Kyiv. Những người Ukraine trong độ tuổi nhập ngũ đã di cư ra nước ngoài nên được kêu gọi trở về nước và tham gia chiến đấu. Ở các nước châu Âu nơi nhiều người Ukraine di cư đang sinh sống, chính phủ có thể thành lập các đơn vị quân đội Ukraine và huấn luyện những tân binh trước khi gửi họ trở lại Ukraine.
Yếu tố quyết định sẽ là tốc độ và số lượng viện trợ sát thương. Nếu Ukraine có thể xoay chuyển tình thế trên tiền tuyến và buộc Nga phải quay trở lại hiện trạng lãnh thổ trước tháng 2/2022, họ có thể gây ra một thất bại rõ ràng cho Nga. Crimea sẽ vẫn bị Nga chiếm đóng, nhưng nó cũng sẽ là một điểm yếu mà quân đội Ukraine có thể nhắm mục tiêu để ngăn chặn Moscow tái khởi động một cuộc chiến quy mô lớn. Cảng Sevastopol, một số căn cứ quân sự của Nga, và cây cầu Eo biển Kerch (nối bán đảo Crimea với lục địa Nga) đã được chứng minh là dễ bị tổn thương trước máy bay không người lái của Ukraine và trong trường hợp của cây cầu là một xe tải bom. Ukraine nên được cung cấp nhiều khả năng hơn – chẳng hạn như tên lửa đạn đạo của Mỹ và tên lửa hành trình của Anh, Pháp và Đức – để tấn công những nơi này ngay bây giờ, và giữ chúng trong tình trạng bị đe dọa trong trường hợp ngừng bắn. Theo luật pháp quốc tế công nhận, chúng là một phần của lãnh thổ Ukraine, vì vậy các hoạt động quân sự ở đó sẽ không dẫn đến rủi ro leo thang như tấn công các mục tiêu ở chính Nga. Chỉ có Moscow (và một số ít nước nhỏ) xem Crimea là một phần của Nga, và khi Ukraine tấn công vùng đất này trong hai năm qua, phản ứng của Nga không khác gì phản ứng của họ đối với các cuộc tấn công của Ukraine trên tiền tuyến.
Ngay cả trong trường hợp tốt nhất, cũng không có lý do gì để mong đợi một thất bại kịch tính của Nga đến mức làm thay đổi căn bản quan điểm chiến lược của Moscow. Nga sẽ vẫn là một cường quốc hạt nhân hùng mạnh, nuôi dưỡng khát vọng sâu sắc nhằm khôi phục lại sự vĩ đại của đế chế. Nhưng để đạt được mục tiêu đó, họ cần Ukraine, nơi sẽ mang lại cho họ khả năng đe dọa phần còn lại của châu Âu và gây ảnh hưởng lên nền chính trị châu Âu. Không có Ukraine, Nga chỉ là một cường quốc châu Á đang nhanh chóng mất chỗ đứng vào tay Trung Quốc. Kyiv không thể thay đổi các mục tiêu chiến lược của Moscow bằng những chiến thắng trên chiến trường, nhưng họ có thể ngăn cản Nga kiểm soát các vùng đất của mình. Một nguồn cung vũ khí phương Tây nhanh chóng và đáng kể sẽ mang lại cho Ukraine cơ hội tốt nhất để đẩy lùi lực lượng Nga và tạo ra không gian cũng như thời gian cần thiết để tái thiết, tái trang bị, và răn đe trước một bước tiến khác của Nga. Không có lý do chiến lược nào để Washington kéo dài xung đột bằng việc cung cấp vật tư nhỏ giọt, bởi các chính sách được thiết kế chủ yếu để tránh leo thang sẽ không cứu được Ukraine hay đảm bảo ổn định ở biên giới phía đông châu Âu. Thay vào đó, đã đến lúc tổng thống Mỹ tiếp theo phải có hành động quyết đoán.
Jakub Grygiel là giáo sư chính trị tại Đại học Công giáo Mỹ, cố vấn cấp cao tại Sáng kiến Marathon, và nghiên cứu viên tại Viện Hoover. Ông cũng từng là cố vấn cấp cao của Văn phòng Hoạch định Chính sách Bộ Ngoại giao Mỹ từ năm 2017 đến 2018.