Suy giảm dân số và sự đảo chiều kinh tế vĩ đại

hands_2785083b

Nguồn: George Friedman, “Population Decline and the Great Economic Reversal”, Stratfor, 17/02/2015.

Biên dịch: Lương Khánh Ninh | Hiệu đính: Nguyễn Huy Hoàng

Những tuần vừa qua, chúng ta tập trung sự chú ý vào các nước Hy Lạp, Đức, Ukraine, và Nga. Tất cả đều là những vấn đề nóng bỏng. Nhưng trong mỗi trường hợp, các độc giả muốn tôi chú ý vào điều mà họ coi là khía cạnh ẩn đằng sau và thậm chí mang tính quyết định đối với những vấn đề ấy – nếu không phải bây giờ thì cũng sẽ không bao lâu nữa. Khía cạnh ấy là sự suy giảm dân số và tác động của nó đến những quốc gia kể trên. Lập luận được đưa ra là sự suy giảm dân số sẽ tạo ra những cuộc khủng hoảng ở các nước này và những nước khác, làm suy yếu nền kinh tế và quyền lực quốc gia của họ. Đôi khi chúng ta cần dừng lại và bỏ qua những cuộc khủng hoảng trước mắt để đến với những vấn đề rộng lớn hơn. Hãy bắt đầu với một vài suy nghĩ trong cuốn sách “Thế giới 100 năm tới” (The Next 100 Years) do tôi viết. Continue reading “Suy giảm dân số và sự đảo chiều kinh tế vĩ đại”

Lý thuyết của Piketty và trường hợp Nhật Bản

610915599_o

Nguồn: Yuriko Koike, “Thomas Piketty’s Japanese Tour,” Project Syndicate, 01/03/2015.

Biên dịch: Thái Khánh Phong | Hiệu đính: Nguyễn Huy Hoàng

Cuốn Capital in the Twenty-First Century (Tư bản trong thế kỷ 21) của Thomas Piketty đã trở thành cuốn sách bán chạy ở Nhật Bản 6 tháng sau khi tạo nên một làn sóng tranh luận tại Hoa Kỳ và Châu Âu. Nhưng sự khác biệt lớn giữa Nhật Bản và các nước phát triển khác ở phương Tây đã làm cho các lập luận của Piketty có thêm những ý nghĩa độc đáo mới, giống như đã từng xảy ra với nhiều món hàng xuất khẩu khác của phương Tây sang đất nước này.

Luận đề cơ bản của Piketty cho rằng nhân tố hàng đầu làm bất bình đẳng gia tăng ở các nước phát triển là sự tích lũy của cải của những người vốn đã giàu có nhờ tỷ lệ lợi nhuận trên vốn luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP. Tuy nhiên, Nhật Bản lại có mức độ bất bình đẳng thấp hơn so với hầu hết các nước phát triển khác. Thật vậy, dù từ lâu Nhật Bản đã là một cường quốc công nghiệp, nó vẫn thường được gọi là đất nước cộng sản thành công nhất thế giới. Continue reading “Lý thuyết của Piketty và trường hợp Nhật Bản”

Bài toán khí đốt của Putin

pipeline29

Nguồn: Paul R. Gregory, “Putin’s Gas Problem”, Project Syndicate, 26/02/2015.

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp

Những nhà quan sát Nga hiện đang tập trung vào thỏa thuận ngừng bắn mới nhất ở Ukraine, nhằm tìm cách mổ xẻ những ý định của Tổng thống Vladimir Putin tại đây. Nhưng họ cũng không nên bỏ qua một cuộc đấu tranh khác đang diễn ra – điều sẽ gây nên những hậu quả lâu dài sâu sắc cho châu Âu và cho khả năng gây áp lực lên lục địa này của Putin.

Cuối tháng 12 vừa qua, công ty khí đốt khổng lồ của Nga Gazprom và một công ty đường ống Thổ Nhĩ Kỳ đã ký một bản ghi nhớ nhằm xây dựng một đường ống dẫn khí từ Nga đến Thổ Nhĩ Kỳ qua Biển Đen. “Dòng chảy Thổ Nhĩ Kỳ” mới này là sự thay thế cho “Dòng chảy phương Nam” – đường ống từ Nga sang Bulgaria qua Biển Đen – một dự án mà Điện Kremlin đã hủy bỏ cũng trong tháng 12 nhằm đáp trả các lệnh trừng phạt của EU sau sự kiện Nga xâm lược Ukraine và sáp nhập Crimea. Continue reading “Bài toán khí đốt của Putin”

Sự lên ngôi của các chính sách tiền tệ trái lệ

monetary-policy

Nguồn: Nouriel Roubini, “An Unconventional Truth”, Project Syndicate, 01/02/2015.

Biên dịch: Ninh Thị Thanh Hà | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp

Ai nghĩ rằng sáu năm sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, phần lớn các nền kinh tế phát triển vẫn sẽ bơi trong nồi súp chữ cái các chính sách tiền tệ trái lệ – ZIRP, QE, CE, FG, NDR và U-FX Int? Trước năm 2008, không có ngân hàng trung ương nào cân nhắc đến bất kỳ biện pháp nào như vậy: ZIRP – zero interest rate policy (chính sách lãi suất 0%), QE – quantitative easing (nới lỏng định lượng), CE – credit easing (nới lỏng tín dụng), FG – forward guidance (định hướng thị trường tiền tệ), NDR – negative deposit rate (lãi suất tiền gửi âm), U-FX Int – unlimited foreign exchange intervention (can thiệp không hạn chế vào tỉ giá hối đoái). Ngày nay, những biện pháp này lại trở thành phần chủ yếu trong bộ công cụ của người làm chính sách. Continue reading “Sự lên ngôi của các chính sách tiền tệ trái lệ”

Trung Quốc thao túng tiền tệ không phải là vấn đề

china_yuan

Nguồn: Jeffrey Frankel, “The Non-Problem of Chinese Currency Manipulation,” Project Syndicate, 20/02/2015.

Biên dịch: Nguyễn Thị Bảo Trân | Hiệu đính: Nguyễn Huy Hoàng

Hai đảng chính trị của Mỹ hiếm khi thống nhất với nhau, nhưng có một điều khiến họ đoàn kết chính là sự giận dữ về vấn đề “thao túng tiền tệ,” đặc biệt là của Trung Quốc. Có lẽ do sự tăng giá gần đây của đồng Đô la Mỹ và những dấu hiệu đầu tiên cho thấy nó đang làm giảm xuất khẩu ròng của Mỹ, đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa một lần nữa đang xem xét việc làm luật để đối phó với những gì mà họ cho là định giá thấp tiền tệ một cách không công bằng. Những biện pháp được đề xuất bao gồm áp thuế đối kháng (còn gọi là thuế chống phá giá – NHĐ) lên hàng hóa nhập khẩu từ các nước vi phạm, dù điều này mâu thuẫn với các nguyên tắc thương mại quốc tế. Continue reading “Trung Quốc thao túng tiền tệ không phải là vấn đề”

Bài học đạo đức từ Hy Lạp

eu_greece_crisis

Nguồn: Joseph E. Stiglitz, “A Greek Morality Tale”, Project Syndicate, 03/02/2015.

Biên dịch: Bế Minh Nhật | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp

Khi cuộc khủng hoảng khu vực đồng Euro bắt đầu nửa thập niên trước, các nhà kinh tế học trường phái Keynes đã dự đoán rằng chính sách thắt chặt chi tiêu (hay thắt lưng buộc bụng – NHĐ) được áp đặt lên Hy Lạp và các nước đang lâm vào khủng hoảng khác sẽ thất bại. Nó sẽ làm kiềm chế tăng trưởng kinh tế và làm tăng tỉ lệ thất nghiệp – và thậm chí còn không thể làm giảm tỉ lệ nợ trên GDP nữa. Các nhà nghiên cứu khác – trong Uỷ ban Châu Âu, Ngân hàng Trung ương Châu Âu, và một vài trường đại học – đã nói về sự thu hẹp kinh tế đang lan rộng. Nhưng ngay cả Quỹ Tiền tệ Quốc tế cũng cho rằng, sự thu hẹp kinh tế, ví dụ như sự cắt giảm chi tiêu chính phủ, không có nhiều tác động tiêu cực. Continue reading “Bài học đạo đức từ Hy Lạp”

Vì sao chính khách Mỹ phản đối TPP?

CocC_Banner_Straighton_4-25-2014

Tác giả: Nguyễn Vạn Phú

Chuyện một số chính khách Mỹ phản đối Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) không có gì mới nhưng bài viết của Thượng nghị sĩ Elizabeth Warren trên tờWashington Post vào tuần trước đáng chú ý vì nêu rõ một nguyên nhân cụ thể của thái độ phản đối này.

Trong bài viết này bà Warren chỉ đề cập đến một điểm duy nhất – đó là cơ chế “Giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và nhà nước” gọi tắt là ISDS. Điều thú vị là lẽ ra người phản đối các điều khoản ISDS này phải là chính phủ các nước nhỏ, doanh nghiệp các nước đang phát triển trước nguy cơ bị các tập đoàn đa quốc gia lấn lướt. Chính phủ các nước mạnh như Mỹ có gì phải ngại cái cơ chế đẻ ra để bảo vệ các nhà đầu tư đem vốn ra nước ngoài làm ăn. Continue reading “Vì sao chính khách Mỹ phản đối TPP?”

Paul Krugman: Không ai hiểu gì về nợ!

debt-free

Nguồn: Paul Krugman, “Nobody Understands Debt”, The New York Times, 09/02/2015.

Biên dịch: Lương Khánh Ninh | Biên tập: Lê Hồng Hiệp

Nhiều nhà kinh tế, bao gồm cả Janet Yellen (Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ – NBT), chủ yếu nhìn nhận các vấn đề kinh tế toàn cầu kể từ năm 2008 như một câu chuyện xoay quanh quá trình “thoái nợ” (deleveraging) – nỗ lực được các con nợ ở hầu như khắp mọi nơi thực hiện cùng một lúc nhằm giảm số nợ phải trả. Tại sao quá trình thoái nợ lại là một vấn nạn? Bởi vì chi tiêu của tôi là thu nhập của bạn, và chi tiêu của bạn là thu nhập của tôi, vậy nên nếu tất cả mọi người cắt giảm chi tiêu cùng một lúc, thu nhập trên thế giới sẽ bị giảm đi. Continue reading “Paul Krugman: Không ai hiểu gì về nợ!”

Bế tắc cải cách tại Trung Quốc

121018095950-china-growth-story-top

Nguồn: Keyu Jin, “China’s reform stalemate”, Project Syndicate, 26/01/2015.

Biên dịch: Nguyễn Hoàng Minh | Hiệu đính: Nguyễn Ngọc Tường Ngân

Kế hoạch cải cách của Trung Quốc đã đi vào thế bế tắc, với những xung đột lợi ích căn bản và các cơ chế phản kháng tinh vi đang ngăn chặn tiến trình này. Cho tới khi những rào cản này được loại bỏ, gần như không có hi vọng nào về việc nền kinh tế đang tăng trưởng chậm của Trung Quốc – với chỉ số tăng trưởng 7,4% năm 2014, thấp nhất trong khoảng một phần tư thế kỉ gần đây – có thể dựa vào cải cách để tạo động lực phát triển cần thiết.

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã quá quen với khó khăn trong việc tiến hành những cải cách quyết liệt. Khi Đặng Tiểu Bình triển khai kế hoạch cấp tiến của mình về “cải cách và mở cửa” vào năm 1978, ông đã đối mặt với sự phản đối dữ dội – hầu hết từ các nhà tư tưởng cực đoan và các nhà cách mạng bảo thủ. Cũng giống như vị thế và sức mạnh của Đặng Tiểu Bình đã giúp ông qua mặt các đối thủ và tiếp tục quá trình hiện đại hóa nền kinh tế Trung Quốc, sự lãnh đạo quyết đoán của Chủ tịch Tập Cận Bình cũng có thể vượt qua được các nhóm lợi ích cố hữu để tiến hành những cải cách cần thiết.  Continue reading “Bế tắc cải cách tại Trung Quốc”

Tại sao khủng hoảng 2008 nổ ra?

Stock-Market-Crash

Nguồn:  J. Bradford Delong, “What failed in 2008?”, Project Syndicate, 28/01/2015.

Biên dịch: Trần Nguyễn Dạ Vi | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp

Để giải quyết một vấn đề, chỉ biết phải làm gì là chưa đủ. Bạn cần phải thực sự thi hành giải pháp – và chấp nhận thay đổi cách làm nếu như hóa ra bạn không thực sự biết nhiều như bạn tưởng. Đó là thông điệp của hai cuốn sách mới, trong đó chúng cùng nói cho bạn tất cả những gì bạn cần biết về cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008: Điều gì gây ra nó, điều gì có thể làm để nó không tái diễn, và tại sao những điều này chưa được thực hiện.

Cuốn thứ nhất là “The Shifts and the Shocks” (Các thay đổi và cú sốc), viết bởi nhà báo phái bảo thủ ngưới Anh Martin Wolf. Ông bắt đầu bằng cách liệt kê ra những thay đổi quan trọng đã tạo ra thảm họa kinh tế mà hiện nay vẫn còn tiếp tục định hình thế giới. Khởi điểm của ông là sự tăng vọt lượng tài sản của những người giàu trong nhóm 0,1% và 0,01% và hậu quả là áp lực khiến mọi người, chính phủ và các công ty ngày càng gánh vào những mức nợ không bền vững. Continue reading “Tại sao khủng hoảng 2008 nổ ra?”

TQ quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ và tác động đến VN

Compass on renminbi

Tác giả: Nguyễn Minh Khôi

Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới 2008, Trung Quốc (TQ) đã có những bước đi mới nhằm thúc đẩy việc quốc tế hóa (QTH) đồng nhân dân tệ (NDT) và đã đạt được những bước tiến mạnh mẽ. Đến cuối năm 2014, TQ đã ký 29 thỏa thuận hoán đổi tiền tệ[1] song phương với các trên thế giới; đến tháng 10/2014, đồng NDT đã vượt qua đồng đô-la Úc và đô-la Canada để trở thành đồng tiền được sử dụng thanh toán nhiều thứ 5 trên thế giới, gần tiếp cận với đồng Yên Nhật. Mức độ sử dụng đồng NDT trong thanh toán quốc tế trong 2 năm qua (2012-2014) đã tăng trên 321%. Riêng năm 2014, mức tăng trên đạt 102% so với mức tăng chung 4,4% của tất cả các loại tiền tệ khác trong thanh toán quốc tế.[2]  Continue reading “TQ quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ và tác động đến VN”

Tại sao giảm phát lại tồi tệ?

B6HYHG_3090984b

Nguồn:Why deflation is bad”, The Economist, 07/01/2015

Biên dịch: Lương Khánh Ninh | Biên tập: Lê Hồng Hiệp & Nguyễn Ngọc Tường Ngân

Giá cả ở khu vực đồng euro đang hạ xuống. Số liệu công bố ngày 7/1 cho thấy giá tiêu dùng trong năm 2014 tính đến tháng 10 đã tụt 0,2%, đánh dấu sự quay trở lại của giảm phát lần đầu tiên kể từ năm 2009. Mức cầu yếu do chính sách thắt lưng buộc bụng, nợ và sự thiếu hụt tăng trưởng đang kéo mức giá cả xuống. Giá dầu giảm cũng khiến hàng hóa rẻ hơn. Người ta có thể nghĩ rằng giá cả giảm là một điều đáng để ăn mừng, nhưng những lo ngại về bẫy giảm phát và vòng xoáy suy thoái vẫn đang tồn tại khắp nơi. Ngân hàng Trung ương Châu Âu có thể sẽ khởi động chương trình nới lỏng định lượng trong tháng này để ngăn chặn nguy cơ ấy. Vậy tại sao các nhà kinh tế học lại rất sợ việc giá cả giảm? Continue reading “Tại sao giảm phát lại tồi tệ?”

Trung Quốc sẽ tăng trưởng nhanh đến đâu?

???????????

Nguồn: Justin Yifu Lin, “How Fast Will China Grow?”, Project Syndicate, 29/01/2015.

Biên dịch: Nguyễn Huy Hoàng | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp

Trong 35 năm kể từ khi công cuộc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường của Trung Quốc bắt đầu, nước này đã tăng trưởng với tốc độ bình quân 9,8% – một mức tăng bùng nổ chưa từng có. Nhưng đã có những dấu hiệu cho thấy phép lạ của Trung Quốc đang dần đến hồi kết thúc – hay ít nhất là tăng trưởng kinh tế nước này đang chậm lại. Tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc đã giảm kể từ quý đầu tiên của năm 2010. Năm 2014, tốc độ tăng trưởng tương đối yếu, đạt 7,4%.

Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc nhiều khả năng sẽ tiếp tục phải đối mặt với những cơn gió ngược chiều trong năm nay, ít nhất là nếu so với thập niên trước. Khi các nhà hoạch định chính sách xây dựng kế hoạch năm năm lần thứ 13 của đất nước, họ sẽ phải vật lộn với một câu hỏi căn bản: Trung Quốc mong đợi tăng trưởng nhanh đến đâu? Continue reading “Trung Quốc sẽ tăng trưởng nhanh đến đâu?”

Liệu Trung Quốc có thể tránh được giảm phát không?

002564baec4813efb5c90e

Nguồn: Yao Yang, “Can China Avoid Deflation?”, Project Syndicate, 26/01/2015.

Biên dịch: Phạm Thị Huyền Trang | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp

Trong bài phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới 2015 tại Davos, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường đã thừa nhận rằng nền kinh tế của Trung Quốc đang phải đối mặt với những cơn gió ngược chiều mạnh mẽ. Năm 2014, tăng trưởng GDP hàng năm của Trung Quốc chỉ đạt 7,4% – mức thấp nhất kể từ năm 1990. Tuy nhiên, để ổn định tăng trưởng kinh tế, ông đã cam kết Trung Quốc sẽ “tiếp tục theo đuổi một chính sách tài khóa chủ động và chính sách tiền tệ thận trọng.”

Tình trạng suy thoái kinh tế hiện nay của Trung Quốc là hậu quả của những chính sách trước đó. Trong hai năm qua, chính phủ Trung Quốc đã thắt chặt chính sách tài khóa và tiền tệ, với hy vọng bù đắp những tác động tiêu cực sau khi triển khai gói kích cầu lớn nhằm đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Bài phát biểu của ông Lý tại Davos báo hiệu rằng chính phủ Trung Quốc sẽ không cho phép tốc độ tăng trưởng trượt dốc hơn nữa. Continue reading “Liệu Trung Quốc có thể tránh được giảm phát không?”

Các biện pháp trừng phạt kinh tế có hiệu quả không?

Nguồn: Kenneth Rogoff, “Do Economic Sanctions Work?Project Syndicate, 02/01/2015.

Biên dịch: Nguyễn Quang Dũng | Hiệu đính: Nguyễn Huy Hoàng

Bài liên quan: Chiến tranh kinh tế Nga – Phương Tây trong lịch sử

Khi tin tức về các biện pháp trừng phạt kinh tế mà phương Tây đang áp đặt lên Nga, Iran và Cuba đang tràn ngập các mặt báo, đã đến lúc chúng ta nên bàn về tính hiệu quả của những biện pháp này. Câu trả lời ngắn gọn là các biện pháp trừng phạt kinh tế thường chỉ có kết quả khiêm tốn, ngay cả khi chúng có thể là phương tiện thiết yếu để thể hiện tinh thần quyết tâm. Nếu muốn các biện pháp trừng phạt kinh tế đóng vai trò quan trọng trong ngoại giao ở thế kỷ 21, chúng ta nên đánh giá lại hiệu quả của chúng trong quá khứ.

Như Gary Hufbauer và Jeffrey Schott đã viết trong cuốn sách kinh điển của họ về đề tài này, lịch sử của các biện pháp trừng phạt kinh tế bắt đầu ít nhất là từ năm 432 TCN khi vị chính khách và tướng lĩnh Hy Lạp cổ đại Pericles ban hành “sắc lệnh Megar” nhằm trả đũa vụ bắt cóc 3 người hầu của Aspasia (người tình của Pericles – NHĐ). Continue reading “Các biện pháp trừng phạt kinh tế có hiệu quả không?”

Nhờ đâu kinh tế Mỹ phục hồi?

newyork_2569619b

Nguồn: Jeffrey Frankel, “The End of Republican Obstruction”, Project Syndicate, 19/1/2015.

Biên dịch: Lê Hoàng Giang | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp

Khoảng thời gian hai tháng qua đã tạo nên một sự khác biệt rõ ràng. Khi Đảng Cộng hòa giành được chiến thắng lớn trong cuộc bầu cử Quốc hội Hoa Kỳ vào tháng 11 năm ngoái, cách lý giải được chấp nhận rộng rãi là do các cử tri đã bày tỏ sự chán nản và bực bội trước thành tích kém cỏi của nền kinh tế. Quả thật là khi người dân Mỹ đi bỏ phiếu, phần lớn họ đã có chung suy nghĩ rằng tình trạng kinh tế đang xấu đi trầm trọng, nhiều người đã cho rằng trách nhiệm thuộc về Tổng thống Barack Obama và đã bỏ phiếu chống lại Đảng Dân chủ của ông.

Nhưng giờ đây, mọi người đột nhiên lại phát hiện ra rằng nền kinh tế Hoa Kỳ đang ở tình trạng khá tốt – tốt đến mức Thượng Nghị sĩ Mitch McConnell, lãnh đạo phe đa số tại Thượng Viện Hoa Kỳ, đã chuyển từ đổ lỗi cho Obama vì gây nên tình trạng kinh tế yếu kém sang đòi được ghi nhận công lao (của Đảng Cộng hòa) vì mang lại một nền kinh tế hiệu quả. Continue reading “Nhờ đâu kinh tế Mỹ phục hồi?”

Các nhà kinh tế học mang lại ích lợi gì?

4economists

Nguồn: Robert J. Shriller, “What Good Are Economists?”, Project Syndicate, 15/01/2015.

Biên dịch: Tường Vân Anh | Hiệu đính: Lương Khánh Ninh

Từ khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và suy thoái kinh tế 2007 – 2009 diễn ra đến nay, những chỉ trích nhắm vào lĩnh vực kinh tế học ngày càng mạnh mẽ. Thất bại của hầu hết chuyên gia kinh tế trong việc dự báo sự kiện này mà hậu quả của nó vẫn còn dai dẳng đã dẫn tới câu hỏi liệu các chuyên gia kinh tế có đóng góp bất kỳ điều gì quan trọng cho xã hội hay không. Nếu như họ không thể dự đoán những thứ quan trọng đối với sự thịnh vượng của người dân, vậy họ có tác dụng gì?

Thực vậy, các nhà kinh tế học đã không thể dự đoán được đa số các cuộc khủng hoảng lớn trong thế kỷ trước, bao gồm cuộc suy thoái kinh tế 1920-1921, những cuộc khủng hoảng diễn ra liên tiếp trong giai đoạn 1980-1982 và tồi tệ nhất là Đại suy thoái 1929 xảy ra sau khi thị thường chứng khoán đổ vỡ. Continue reading “Các nhà kinh tế học mang lại ích lợi gì?”

Khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng trong kinh tế (học)

global-financial-crisis

Tác giả: Trần Hữu Dũng

Vào ngày 5 tháng 11, 2008, trong lúc viếng thăm Trường Kinh tế Luân Đôn (London School of Economics) nổi tiếng, nữ hoàng Anh Elizabeth II hỏi các nhà kinh tế hiện diện: “Tại sao không ai tiên đoán được cuộc khủng hoảng tín dụng hiện nay?” (Nghe đâu hoàng gia đã mất ít nhất 50 triệu bảng Anh vì cuộc khủng hoảng này).

Câu hỏi của nữ hoàng  ̶  và có lẽ cũng của nhiều người khác  ̶  đã làm các giáo sư hiện diện vô cùng bối rối. Thật vậy, trong các “bong bóng” bị vỡ vì cuộc khủng hoảng tài chính hai năm nay, thì cái bị vỡ một cách “ngoạn mục” nhất có lẽ là “uy tín” của các nhà kinh tế vĩ mô.  (Nên nói cho rõ: những chỉ trích này thường nhắm vào kinh tế học vĩ mô (macroeconomics) và kinh tế tài chính (financial economics), còn kinh tế vi mô (microeconomics) thì được xem như “vô can”!). Continue reading “Khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng trong kinh tế (học)”

Nguyên nhân chính trị của sự trì trệ kinh tế toàn cầu hiện nay

global_economic_crisis

Nguồn: Joseph E. Stiglitz, “The politics of Economic Stupidity”, Project Syndicate, 20/1/2015

Biên tập: Phạm Hồng Anh | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp

Năm 2014, nền kinh tế thế giới vẫn mắc kẹt trong vết lún xuất hiện từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Bất chấp những hành động có vẻ mạnh tay của chính phủ các nước Châu Âu và Hoa Kỳ, cả hai nền kinh tế này vẫn phải gánh chịu những cuộc suy thoái sâu sắc và kéo dài. Có một sự chênh lệch quá lớn giữa tình trạng hiện tại và sự thịnh vượng mà các nền kinh tế này rất có thể đã đạt được nếu cuộc khủng hoảng không diễn ra. Tại Châu Âu, sự chênh lệch này còn tăng dần qua từng tháng.

Những nước đang phát triển thì xoay sở tốt hơn, nhưng ngay cả ở đó tình hình cũng nhuốm màu ảm đạm. Những nền kinh tế thành công nhất – mà tăng trưởng vốn dựa vào xuất khẩu – vẫn tiếp tục phát triển sau cuộc khủng hoảng tài chính, ngay cả khi các thị trường xuất khẩu của họ đều chật vật. Nhưng đến 2014, thành tích của những nước này cũng đã bắt đầu chững lại đáng kể. Continue reading “Nguyên nhân chính trị của sự trì trệ kinh tế toàn cầu hiện nay”

Triển vọng kinh tế Trung Quốc

China-Economic-Growth

Nguồn: Zhang Monan, “The Next Chinese Economy,” Project Syndicate, 03/01/2015.

Biên dịch: Nguyễn Thúc Cường | Hiệu đính: Nguyễn Huy Hoàng

Sau hơn 30 năm phát triển vượt bậc, nền kinh tế Trung Quốc đang có xu hướng quay về với đường lối phát triển mang tính truyền thống hơn – và quá trình tái cân bằng khó khăn đang được tiến hành, ảnh hưởng đến hầu hết mọi khía cạnh của nền kinh tế.

Thứ nhất, thặng dư tài khoản vãng lai của Trung Quốc đã giảm từ mức đỉnh 10% GDP vào năm 2007 còn khoảng hơn 2% trong năm ngoái – mức thấp nhất trong 9 năm vừa qua. Trong quý 3 năm 2014, thặng dư ngoại thương đứng ở mức 81,5 tỉ USD và thâm hụt tài khoản vốn lên tới 81,6 tỉ USD, những con số này phản ánh một cán cân thanh toán ổn định hơn. Continue reading “Triển vọng kinh tế Trung Quốc”