Quan điểm lịch sử của Putin về Thế chiến II

vladimir-putin-759

Nguồn: Alexander Etkind, “Putin’s History Lessons”, Project Syndicate, 15/09/2009

Biên dịch: Nguyễn Thùy Linh | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp

Ý thức hệ của Liên Xô từng luôn hướng về tương lai. Ngược lại, hệ tư tưởng chính thống của nước Nga ngày nay dường như chỉ tập trung nhìn về quá khứ.

Bài viết gần đây của Thủ tướng Nga Vladimir Putin đăng trên tờ Gazeta Wyborcza của Ba Lan nhằm tưởng niệm 60 năm ngày Phát xít Đức xâm chiếm Ba Lan đã thể hiện sự quyết tâm của ông nhằm khẳng định vai trò của Nga trong lịch sử châu Âu thế kỷ 20. Bài viết đã phản ánh những vấn đề sâu sắc vẫn còn tồn đọng trong kỷ nguyên của Putin: đó là việc thiếu khả năng phân định giữa quá khứ của Liên Xô với hiện tại của nước Nga; một sự kết hợp bừa bãi giữa chủ nghĩa bảo thủ chính trị và chủ nghĩa xét lại lịch sử; và thái độ thờ ơ, gần như không chịu tiếp thu, đối với các giá trị dân chủ cốt lõi. Continue reading “Quan điểm lịch sử của Putin về Thế chiến II”

24/07/1911: Di tích Machu Picchu được phát hiện

machupc

Nguồn: “Machu Picchu discovered”, History.com (truy cập ngày 24/7/2016)

Biên dịch: Nguyễn Ngọc Tường Ngân

Vào ngày này năm 1911, nhà khảo cổ học người Mỹ Hiram Bingham đã nhìn thấy Machu Picchu lần đầu tiên. Đây là một khu định cư của người Inca cổ đại ở Peru và bây giờ là một trong những địa điểm thu hút khách du lịch hàng đầu thế giới.

Nằm tách biệt ở vùng nông thôn nhiều núi đá về phía tây bắc thành phố Cuzco (Peru), Machu Picchu được tin là địa điểm nghỉ mát mùa hè dành cho các nhà lãnh đạo người Inca, những người mà nền văn minh của họ đã hầu như bị xóa sổ bởi những kẻ xâm lược Tây Ban Nha vào thế kỷ thứ 16. Trong hàng trăm năm sau đó, sự tồn tại của nó là một bí mật mà chỉ những người nông dân sống trong khu vực biết đến. Tất cả điều đó đã thay đổi trong mùa hè năm 1911, khi Bingham đã đến với một nhóm nhỏ các nhà thám hiểm để tìm kiếm thành phố “bị thất lạc” nổi tiếng của người Inca. Continue reading “24/07/1911: Di tích Machu Picchu được phát hiện”

Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO)

sigla_nato_1

Tác giả: Lê Thành Lâm

Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) được phát triển từ Hiệp ước Phòng thủ tập thể Brussels do Anh, Pháp và ba nước Benelux (gồm Bỉ, Hà Lan và Luxembourg) ký tháng 3 năm 1948. Tổ chức này ra đời một phần do tâm lý lo sợ chiến tranh của các nước, nhất là sau cuộc khủng hoảng Tiệp Khắc. Mục đích chính của NATO là ngăn chặn Liên Xô, bảo vệ an ninh và duy trì ổn định ở Tây Âu. Ngày 04/04/1949, Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương được ký ở Washington và chính thức có hiệu lực vào tháng 8/1949. 12 quốc gia tham gia Hiệp ước bao gồm: Hoa Kỳ, Anh, Pháp, ba nước Benelux, Ý, Bồ Đào Nha, Na Uy, Đan Mạch, Ai-len và Canada. Kể từ khi thành lập, NATO đã 6 lần mở rộng và hiện bao gồm 28 thành viên. Ngoài 12 thành viên ban đầu, các thành viên được kết nạp thêm gồm Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ (1952), Cộng hòa Liên bang Đức (1955), Tây Ban Nha (1982), Cộng hòa Séc, Ba Lan, Hungary (1997), Bungari, Estonia, Litva, Latvia, Rumani, Slovakia, Slovenia (2004), Anbani và Croatia (2009).  Trụ sở chính của tổ chức được đặt tại thành phố Brussels (Bỉ). Continue reading “Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO)”

Tại sao người Trung Đông ít tin tưởng nhau?

middleeastpp1

Nguồn: Timur Kuran, “The Roots of Middle East Mistrust”, Project Syndicate, 08/07/2016

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng | Biên tập: Lê Hồng Hiệp

Thật khó mà không nhận ra những ngờ vực đang lan tỏa khắp Trung Đông. Nhiều thí nghiệm có kiểm soát đã cho thấy: người Ả Rập có rất ít niềm tin vào người lạ, ở cả trong và ngoài nước, ít hơn rất nhiều so với người châu Âu chẳng hạn. Điều này cản trở sự tiến bộ trên nhiều mặt, từ phát triển kinh tế đến cải cách chính phủ.

Các xã hội có niềm tin thấp thường ít tham gia vào thương mại quốc tế và thu hút đầu tư cũng giảm. Và, quả thật, theo tổ chức World Values Survey cũng như các nghiên cứu có liên quan, sự tin tưởng giữa các cá nhân ở Trung Đông đã xuống thấp tới mức làm hạn chế giao dịch thương mại, chỉ còn lại giao dịch giữa những người đã biết nhau từ trước, hoặc là giao dịch thông qua người quen. Cũng vì thiếu lòng tin, người Ả Rập thường bỏ qua nhiều cơ hội kinh doanh béo bở nhờ vào các hoạt động trao đổi. Continue reading “Tại sao người Trung Đông ít tin tưởng nhau?”

Chủ tịch Hồ Chí Minh và cố vấn Vĩnh Thụy

baodaihcm

Tác giả: Nguyễn Đắc Xuân

Từ hơn nửa thế kỷ qua, đối với người dân Huế, mỗi lần nhắc đến lịch sử Cách mạng tháng Tám năm 1945, người ta lại nhớ đến sự kiện vua Bảo Đại thoái vị chấm dứt thời đại quân chủ ở Việt Nam và nhớ đến chuyện Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện chính sách đoàn kết dân tộc đã mời ông vua vừa thoái vị làm cố vấn cho Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945-1946). Là một người nghiên cứu Huế, nghiên cứu Chủ tịch Hồ Chí Minh với Thừa Thiên Huế, tôi đã sưu tầm được khá nhiều tư liệu lịch sử có liên quan đến mối quan hệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Cố vấn Vĩnh Thụy. Tôi xin trích 4 tư liệu sau đây để độc giả thưởng lãm và nhớ đến Bác. Continue reading “Chủ tịch Hồ Chí Minh và cố vấn Vĩnh Thụy”

Tổ chức các Nước Xuất khẩu Dầu lửa (OPEC)

opec

Tác giả: Nguyễn Thị Tố Nga

Tổ chức các Nước Xuất khẩu Dầu lửa (Organization of Petroleum Exporting Countries), viết tắt OPEC, là một tổ chức liên chính phủ được thành lập tại Hội nghị Baghdad năm 1960. Năm nước thành viên sáng lập của OPEC là Iran, Iraq, Kuwait, Ảrập Xêút, và  Venezuela. Tính đến thời điểm tháng 11 năm 2009, OPEC có tất cả 12 thành viên, bao gồm Algeria, Angola, Ecuador, Iran, Iraq, Kuwait, Libya, Nigeria, Qatar, Ảrập Xêút, Các Tiểu vương quốc Ảrập thống nhất, và Venezuela. Indonesia là quốc gia duy nhất ở Đông Nam Á từng là thành viên của OPEC từ năm 1962 đến tháng 1 năm 2009. Indonesia rút ra khỏi OPEC sau khi nước này tuyên bố trở thành nước nhập khẩu dầu lửa vào tháng 5 năm 2008. Trụ sở của OPEC đặt tại Viên, Áo và được điều hành bởi một Tổng Thư ký. Continue reading “Tổ chức các Nước Xuất khẩu Dầu lửa (OPEC)”

Tại sao các Thượng phụ Chính thống giáo nhóm họp?

Orthodox

Nguồn:Why Orthodox patriarchs are meeting after centuries“, The Economist, 21/06/2016

Biên dịch: Lê Thị Hồng Loan | Biên tập: Lê Hồng Hiệp

Có những tuyên ngôn tôn giáo về thế giới đã làm nên lịch sử và ảnh hưởng đến cách suy nghĩ của hàng triệu người. Một trong số đó là Pacem in Terris (Hòa bình trên trái đất), một bản cáo trạng lên án chiến tranh được công bố vào năm 1963 bởi Giáo Hoàng John XXIII. Còn một cột mốc trước đó trong giáo huấn Công giáo là De Rerum Novarum (Về những điều mới) vào năm 1891 vốn đã chấp nhận quyền của người lao động trong việc thành lập công đoàn. Trong khi đó, gần đây các nhà lãnh đạo của 200 triệu người Thiên chúa Chính thống giáo trên thế giới lại hiếm khi nỗ lực để thảo luận cùng nhau và đưa ra một thông điệp rõ ràng cho nhân loại. Có lẽ một phần với hy vọng để làm điều đó mà các giám mục của giáo hội sẽ gặp mặt tại Crete trong khoảng thời gian từ nay đến ngày 26/6. Điều gì đã khiến họ tốn quá nhiều thời gian cho điều này và họ hi vọng sẽ đạt được những gì? Continue reading “Tại sao các Thượng phụ Chính thống giáo nhóm họp?”

“Cân bằng Khơi xa”: Đại chiến lược ưu việt của Hoa Kỳ

 offshorebal-1

Nguồn: John J. Mearsheimer & Stephen M. Walt, “The Case for Offshore Balancing: A Superior U.S. Grand Strategy”, Foreign Affairs, 13/06/2016

Biên dịch: Nguyễn Hoàng Như Thanh

Lần đầu tiên trong thời gian gần đây, có một số lượng lớn người dân Mỹ đặt câu hỏi về Đại chiến lược [grand strategy] của đất nước. Một cuộc điều tra của Pew vào tháng 4/2016 chỉ ra 57% người Mỹ đồng ý rằng Hoa Kỳ “cần giải quyết các vấn đề của chính mình và để người khác giải quyết vấn đề của chính họ bằng tất cả khả năng của họ”. Trong chiến dịch tranh cử Tổng thống hiện nay, cả ứng cử viên Dân chủ Bernie Sanders và ứng cử viên Cộng hòa Donald Trump đều nhận được sự ủng hộ từ một bộ phận cử tri khi nghi ngờ khuynh hướng thúc đẩy hòa bình, trợ cấp quốc phòng cho đồng minh và can thiệp quân sự; chỉ có ứng cử viên Dân chủ Hillary Clinton là ủng hộ duy trì chính sách hiện nay. Continue reading ““Cân bằng Khơi xa”: Đại chiến lược ưu việt của Hoa Kỳ”

#264 – Quản lý các vấn đề quốc tế

qhqt

Nguồn: Kenneth N. Waltz (1979). Theory of International Politics (Chapter 9) (Reading, Mass.: Addison-Wesley Pub. Co.), pp. 194-210.

Biên dịch: Nguyễn Thị Ngân Giang & Nguyễn Lương Đức | Hiệu đính: Nguyễn Hoàng Như Thanh

Bài liên quan: Các chương khác của cuốn Theory of International Politics

Nếu như quyền lực không thực sự mang lại sự kiểm soát thì nó mang lại điều gì? Về cơ bản, nó mang lại bốn thứ. Đầu tiên, quyền lực cung cấp công cụ duy trì độc lập của chủ thể này khi đối mặt với áp lực từ các chủ thể khác. Thứ hai, quyền lực lớn hơn cho phép nhiều lựa chọn hành động hơn nhưng không thể bảo đảm kết quả của hành động. Hai lợi thế này đã được chúng ta thảo luận. Hai lợi thế tiếp theo cần làm rõ hơn.

Thứ ba, bên mạnh hơn có biên độ an toàn rộng hơn khi hành động đối phó với bên yếu hơn, và có tiếng nói trọng lượng hơn về cuộc chơi cũng như cách chơi. Duncan và Schnore đã định nghĩa quyền lực theo nghĩa sinh thái học là “khả năng của một nhóm các hành động hoặc vai trò đặt ra những điều kiện mà trong [điều kiện] đó những nhóm khác phải thực hiện chức năng của mình” (1959, tr. 139). Continue reading “#264 – Quản lý các vấn đề quốc tế”

Năm mươi năm sau: Trăm hoa đua nở ở VN 1954-60 (P6)

thdn

Nguồn: Heinz Schütte, “Fünfzig Jahre danach: Hundert Blumen in Vietnam 1954-1960”, Hamburger Südostasienstudien, Band 3, 2009.

Biên dịch: Talawas

Bài liên quan: Phần 1; Phần 2; Phần 3; Phần 4; Phần 5

10. Bản án

Tháng 1 năm 1960 diễn ra phiên tòa chống lại những người bị cáo buộc làm gián điệp. Trần Duy, Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt không thuộc số những người bị khởi tố, mà, như Hoàng Cầm nhớ lại, họ chỉ xuất hiện như những nhân chứng. Họ phải có mặt ở phiên tòa 5 ngày liền để phục vụ yêu cầu của tòa án. Phan Khôi, như đã nói ở trên, bị báo chí năm 1958 quy kết là “một phần tử hoạt động nguy hiểm” cho Pháp, đã qua đời đầu năm 1960, chỉ vài ngày trước khi phiên tòa diễn ra.

Nguyễn Hữu Đang không bị khởi tố với tư cách là lãnh tụ chính trị của Nhân văn, mà, một mặt ông bị cáo buộc làm gián điệp, mặt khác ông bị kết tội vì tổ chức trốn chạy khỏi miền Bắc thông qua sự trợ giúp của một “tổ chức”. Continue reading “Năm mươi năm sau: Trăm hoa đua nở ở VN 1954-60 (P6)”

Đại tướng Lê Đức Anh viết về ‘người anh’ Lê Duẩn

leduan

“Chúng ta thường nói Đại hội Đảng VI là mốc son của công cuộc đổi mới đất nước. Điều đó đúng, nhưng không có nghĩa là đến Đại hội VI mới có đổi mới, ý tưởng này đã manh nha từ Đại hội IV, tới Đại hội V nó rõ dần, và tới trước thềm Đại hội VI thì tình thế, điều kiện về mọi mặt chín muồi cho Đảng và Nhà nước ta quyết định công bố đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước”, Đại tướng Lê Đức Anh nhớ lại.

“Ông Hai trăm Bu-gi”

Lần đầu tiên tôi được tiếp xúc với anh Lê Duẩn là tại Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ mở rộng đầu năm 1947 ở Đồng Tháp Mười. Lúc đó ở Nam Bộ tổ chức cộng sản có hai phái  “Tiền Phong” và “Giải Phóng” cùng lãnh đạo quần chúng làm cách mạng  nhưng hai phái không đoàn kết mà lại tranh giành ảnh hưởng với nhau. Anh Lê Duẩn chủ trì hội nghị, một hội nghị vô cùng quan trọng vì không những nó hợp nhất, củng cố, khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, mà nó còn định hướng cho tổ chức Đảng các cấp trong toàn Xứ ủy để lãnh đạo kháng chiến chống Pháp trước tình hình cấp bách đang diễn ra. Continue reading “Đại tướng Lê Đức Anh viết về ‘người anh’ Lê Duẩn”

Toàn cầu hóa (Globalization)

globalization-edudemic

Tác giả: Lê Hồng Hiệp

Xuất hiện từ những năm 1960, “toàn cầu hóa” đã trở thành một trong những khái niệm được sử dụng rộng rãi nhất trong ngành khoa học xã hội đương đại và đồng thời là một trong những vấn đề gây nhiều tranh cãi nhất. Toàn cầu hóa có thể hiểu là một hiện tượng gắn liền với sự gia tăng về số lượng cũng như cường độ của các cơ chế, tiến trình và hoạt động nhằm thúc đẩy gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trên thế giới cũng như sự hội nhập kinh tế và chính trị ở cấp độ toàn cầu. Theo đó, toàn cầu hóa làm lu mờ các đường biên giới quốc gia, thu hẹp các khoảng không gian trên các khía cạnh đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa của thế giới. Continue reading “Toàn cầu hóa (Globalization)”

Hãy để lịch sử đánh giá các cuộc cách mạng Nga

lenin1917

Nguồn: Roy Medvedev, “Let History Judge Russia’s Revolutions”, Project Syndicate, 05/11/2007

Biên dịch: Ngô Việt Nguyên | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp

Một loạt những lễ kỷ niệm sẽ diễn ra ở Nga năm 2007. Tháng này đánh dấu kỷ niệm 90 năm Cách mạng tháng 10 Nga và kỷ niệm 25 năm ngày mất của Leonid Brezhnev. Tháng sau sẽ đánh dấu kỷ niệm 15 năm ngày Liên Xô tan rã. Nhưng chúng ta phải hiểu sự kiện đầu tiên nếu chúng ta muốn hiểu được những sự kiện tiếp theo.

Cách mạng tháng 10 luôn bị nhiều người chỉ trích. Triết gia người Nga Ivan Shmelev gọi nó là “cuộc đại tra tấn nước Nga”. Vasily Rozanov gọi nó là “Cuộc Thảm sát của nước Nga.” Vô số các tác giả đã coi nó như một bi kịch làm phá vỡ dòng chảy lịch sử và hủy hoại những tinh hoa của nước Nga. Continue reading “Hãy để lịch sử đánh giá các cuộc cách mạng Nga”

Tại sao người Nga vẫn tưởng nhớ Stalin?

rus-stalin

Nguồn: Roy Medvedev, “Stalin Lives,” Project Syndicate, 29/03/2005.

Biên dịch: Hiếu Minh | Hiệu đính: Nguyễn Huy Hoàng

Di sản của những nhà độc tài quá cố thuộc những chế độ toàn trị đã sụp đổ không nên còn mập mờ. Chỉ có những tên thiểu số mất trí của Đức mới dám tưởng nhớ Hitler. Ngay cả những tàn dư tuyệt vọng của chế độ Khmer Đỏ cũng không dám kỷ niệm Pol Pot. Vì vậy, khi Nga chuẩn bị kỷ niệm 60 năm ngày chiến thắng phát xít (năm 2005), việc nhắc lại vai trò của Stalin trong chiến thắng ấy có vẻ rất kỳ cục.

Quả thật, đầu năm 2005, tranh luận đã nổ ra ở Moskva về việc có nên xây tượng nhà độc tài đã chết này không. Ở những hiệu sách lớn ở Nga có bán rất nhiều tiểu sử và lịch sử chính trị về Stalin và kỷ nguyên của ông. Một số cuốn dựa trên các tài liệu lưu trữ mới được mở gần đây khá mang tính phê phán. Nhưng phần lớn các sách và tác giả vẫn miêu tả Stalin theo chiều hướng tích cực. Trên thực tế, khi người Nga được hỏi danh sách những người quan trọng nhất thế kỷ 20, Stalin vẫn là nhân vật số một – cùng với Lenin. Continue reading “Tại sao người Nga vẫn tưởng nhớ Stalin?”

Năm mươi năm sau: Trăm hoa đua nở ở VN 1954-60 (P5)

thdn

Nguồn: Heinz Schütte, “Fünfzig Jahre danach: Hundert Blumen in Vietnam 1954-1960”, Hamburger Südostasienstudien, Band 3, 2009.

Biên dịch: Talawas

Bài liên quan: Phần 1; Phần 2; Phần 3; Phần 4

9. Xét lại, Trốt-kít, gián điệp

Mặc dù đã ban lệnh cấm Nhân văn, các tổ chức chính quyền vẫn tỏ ra khá dè dặt – những “sự kiện ở Hungary” đã gây ra bầu không khí hoang mang trong khối các nước xã hội chủ nghĩa khiến người ta phải đặc biệt cảnh giác. BáoNhân văn bị cho là đã:

từ đối lập văn nghệ càng lúc càng (lấn sang)… chính trị, có tính phá hoại và gây chia rẽ, (vì vậy) các tổ chức Đảng và các cơ quan báo chí vẫn phải tiếp tục (bàn về) vấn đề trí thức. Chủ trương chung của các bài viết này là trí thức, nhất là những người đã tham gia kháng chiến, phải tin tưởng hơn vào Đảng. Trong một bài phát biểu không công bố của Trường Chinh, Đảng đã đề cập tới vấn đề trí thức, trong đó nhấn mạnh Đảng phải có thái độ thẳng thắn và rõ ràng với trí thức. Đây là nền chuyên chính của toàn thể giai cấp công nhân chứ không phải của một vài cá nhân. Nếu quả thực có hiện tượng đó thì đấy là sai lầm và cần phải sửa.[i] Continue reading “Năm mươi năm sau: Trăm hoa đua nở ở VN 1954-60 (P5)”

Tính chính đáng (Legitimacy)

legitimacy

Tác giả: Lê Hồng Hiệp

Tính chính đáng là một trong những chủ đề quan trọng nhất trong ngành nghiên cứu chính trị. Tuy nhiên định nghĩa và đo lường tính chính đáng là một điều không dễ, thể hiện ở việc nhiều học giả đưa ra những định nghĩa khác nhau về khái niệm này. Tuy nhiên có thể thấy một phần lớn các nghiên cứu về tính chính đáng dựa trên định nghĩa của Max Weber. Theo Weber, tính chính đáng là cơ sở của mọi hệ thống quyền hành và là nguồn gốc dẫn tới sự tự nguyện tuân thủ quyền hành đó. Tính chính đáng được xây dựng trên cơ sở niềm tin của người dân đối với chính quyền, thừa nhận rằng chính quyền đó xứng đáng được cầm quyền. Niềm tin của người dân vì vậy mang lại cho chính quyền uy tín lãnh đạo. Tính chính đáng cũng bắt nguồn từ sự độc quyền của nhà nước đối với việc sử dụng bạo lực, được đảm bảo thực thi một cách hợp pháp thông qua bộ máy chính quyền và các tòa án tư pháp. Continue reading “Tính chính đáng (Legitimacy)”

Nhìn lại vai trò Quốc hội dân chủ đầu tiên của Liên Xô

gorbachev-yeltsin

Nguồn: Roy Medvedev, “The First and Last Soviet Parliament”, Project Syndicate, 20/10/1999

Biên dịch: Nguyễn Lương Sỹ | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp

Nỗ lực năm 1989 nhằm thiết lập một Quốc hội được bầu một cách dân chủ đầu tiên tại Liên Xô đã chứng tỏ là một trong những cải cách bất ngờ nhất của Gorbachev. Thực vậy, quyết định về chính sách trong nước này tương tự như quyết định đối ngoại của ông nhằm cho phép Đông Âu đoạn tuyệt với chủ nghĩa Cộng sản. Những cải cách quốc nội khác của Gorbachev đã giải quyết các vấn đề kinh tế và văn hóa, thậm chí là cả vấn nạn lạm dụng chất có cồn; còn đây là nỗ lực cải cách lại hệ thống quyền lực. Cũng giống như perestroika (“cải tổ”, chính sách cải cách được Liên Xô tiến hành từ 1986 – 1991), nó đã thất bại bởi thiếu các mục tiêu rõ ràng. Continue reading “Nhìn lại vai trò Quốc hội dân chủ đầu tiên của Liên Xô”

Viễn cảnh khủng hoảng nước toàn cầu và hình mẫu Israel

lettbw

Tác giả: Seth M. Siegel

Bạn sẽ không nhớ đến nước cho đến khi giếng của bạn cạn khô. – Bob Marley

Mặc dù có cái tên bí hiểm, nhưng Hội đồng Tình báo Quốc gia Mỹ (CIA) không có một hoạt động nào gọi là bí mật. Đó là một cơ quan của chính phủ Hoa Kỳ thận trọng và trang nghiêm, nó giống như một câu lạc bộ giảng viên đại học hoặc một think tank (viện nghiên cứu chính sách) hơn là một cơ quan gián điệp như tên gọi của nó. Hội đồng này đưa ra các bản báo cáo, một số là tuyệt mật, tổng hợp thông tin từ các cơ quan tình báo khác nhằm giúp quan chức chính phủ và các nhà hoạch định chính sách có viễn kiến về các vấn đề sắp xảy đến. Vì vậy, sẽ là một điều kỳ lạ khi tổ chức kỳ cựu này phát hành một báo cáo được gọi là tối mật, sau đó giải mật một phần với kết luận rằng thế giới đang bước vào một cuộc khủng hoảng nước kéo dài. Continue reading “Viễn cảnh khủng hoảng nước toàn cầu và hình mẫu Israel”

Tư duy cải cách của Triệu Tử Dương và biến cố Thiên An Môn

trieu tu duong

Nguồn: Bao Tong, “Remembering Zhao Ziyang”, Project Syndicate, 17/01/2005

Biên dịch: Đậu Thế Hoàng | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp

Vào thời điểm khi Triệu Tử Dương [Zhao Ziyang, Tổng bí Thư ĐCS Trung Quốc từ 1/11/1987 đến 23/6/1989] qua đời năm 2005, ông đã phải sống trong điều kiện bị hoàn toàn cô lập khỏi xã hội Trung Quốc do bị quản thúc tại gia bất hợp pháp suốt 16 năm, một điều khiến cho cả luật pháp lẫn Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) phải thấy xấu hổ.

Sự bức hại Triệu Tử Dương là sự bức hại một nhà lãnh đạo tận tâm, người đã cống hiến những nỗ lực đột phá trong hơn một thập niên giúp mở đường cho công cuộc cải cách kinh tế của Trung Quốc. Vào cuối thập niên 1970, nông dân Trung Quốc từ lâu đã mất quyền sở hữu ruộng đất do tập thể hóa và việc thành lập các Công xã Nhân dân. Đó là quyền mà họ chưa bao giờ giành lại được. Tuy nhiên, Triệu Tử Dương là người đầu tiên ủng hộ việc trao lại quyền tự chủ cho nông dân và khởi xướng các đợt thử nghiệm đầu tiên để bãi bỏ Công xã Nhân dân. Continue reading “Tư duy cải cách của Triệu Tử Dương và biến cố Thiên An Môn”

Năm mươi năm sau: Trăm hoa đua nở ở VN 1954-60 (P4)

thdn

Nguồn: Heinz Schütte, “Fünfzig Jahre danach: Hundert Blumen in Vietnam 1954-1960”, Hamburger Südostasienstudien, Band 3, 2009.

Biên dịch: Talawas

Bài liên quan: Phần 1; Phần 2; Phần 3

  1. Giai phm

Điều gì đã xảy ra trong giới văn nghệ sĩ và trí thức Hà Nội thời gian này? Như tôi đã nói, tạp chí Giai phm mùa Xuân do Hoàng Cầm chủ trương đã được xuất bản nhân dịp Tết nguyên đán tháng 3 năm 1956. Trong số báo này, các tác giả đã không viện dẫn đến Liên Xô hay Trung Quốc, mà họ chọn Trường Chinh, nhà tư tưởng hàng đầu của Đảng, bằng việc trích dẫn báo cáo “Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam” năm 1948, trong đó Trường Chinh viết:“Không có phê bình, không có lun chiến, phong trào văn ngh nước ta êm đm quá, trm mc quá… Phê bình vi thái đ ph trách, vi ý đnh chân thành, vi li l khiêm tn thì chng nhng không có hi mà còn giúp cho nhau thêm tiến b và hiu nhau thêm. Xut phát t đoàn kết mà phê bình đ tăng cường đoàn kết, như thế mi tht là đoàn kết chân chính.Continue reading “Năm mươi năm sau: Trăm hoa đua nở ở VN 1954-60 (P4)”