Xã hội dân sự toàn cầu (Global civil society)

globalcivil-society

Tác giả: Hoàng Thanh Hằng

Cùng với quá trình toàn cầu hóa, sự liên kết kinh tế, chính trị, và những biểu hiện của thị trường trên quy mô toàn cầu, xã hội dân sự toàn cầu đã xuất hiện. Dấu hiệu của nó là sự xuất hiện ngày càng nhiều của các tổ chức phi chính phủ, các phong trào dân sự, các mạng lưới liên kết vì những mục đích khác nhau trên quy mô toàn cầu. Những tổ chức, nhóm và phong trào này hoạt động tích cực về chính trị, mang định hướng quốc tế với các mạng lưới quan hệ phát triển cao, có khả năng tập hợp các nguồn lực và sử dụng các công nghệ thông tin liên lạc hiện đại. Continue reading “Xã hội dân sự toàn cầu (Global civil society)”

Vũ khí hủy diệt hàng loạt (WMD)

wmd

Tác giả: Phạm Thủy Tiên

Vũ khí hủy diệt hàng loạt là những loại vũ khí có khả năng gây sát thương cao trên diện rộng và gây tổn thất lớn về cơ sở vật chất, môi trường sinh thái, tác động mạnh đến tâm lý – tinh thần của con người. Nhìn chung, vũ khí hủy diệt hàng loạt gồm 3 loại: Vũ khí sinh học; vũ khí hóa học và vũ khí hạt nhân. Do đó, ngoài thuật ngữ Vũ khí hủy diệt hàng loạt (WMD), người ta còn sử dụng các loại thuật ngữ: Vũ khí nguyên tử, sinh học và hóa học (ABC); vũ khí hạt nhân, sinh học và hóa học (NBC); vũ khí hóa học, sinh học, phóng xạ và hạt nhân (CBRN). Continue reading “Vũ khí hủy diệt hàng loạt (WMD)”

Viện trợ nước ngoài (Foreign aid)

aid

Tác giả: Nguyễn Thị Tố Nga

Viện trợ nước ngoài là các khoản ưu đãi tài chính, hàng hóa và dịch vụ được tài trợ dành cho các nước đang phát triển nhằm thúc đẩy phát triển ở các quốc gia này, thường được thực hiện dưới hình thức hỗ trợ tài chính hoặc hỗ trợ kỹ thuật.

Uỷ ban Hỗ trợ phát triển (Development Assistance Committee – DAC) thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đưa ra một định nghĩa chính xác hơn được sử dụng bởi câu lạc bộ các nhà tài trợ. Theo đó, viện trợ phải: Continue reading “Viện trợ nước ngoài (Foreign aid)”

Vận động hành lang (Lobbying)

lobby

Tác giả: Nguyễn Vĩnh Hằng

Nguồn gốc của thuật ngữ “vận động hành lang” hay “lobbying” vốn bắt nguồn từ chữ “lobby” nghĩa là khu vực sảnh hay hành lang chính của một tòa nhà. Có hai ý kiến về sự ra đời của thuật ngữ vận động hành lang trên thế giới, đó là vào những năm 1870, tổng thống thứ 18 của Mỹ Ulysses S. Grant đã sử dụng thuật ngữ này để gọi những nhà hoạt động chính trị thường chờ đợi ông ở khu vực sảnh của khách sạn Willard ở Washington D.C. nhằm tìm cách tiếp cận và trao đổi các vấn đề với tổng thống. Cũng có ý kiến khác cho rằng thuật ngữ “vận động hành lang” bắt nguồn từ những năm 1840 tại quốc hội Anh, khi công dân Anh có quyền đến hành lang quốc hội để bày tỏ những nguyện vọng của mình. Continue reading “Vận động hành lang (Lobbying)”

Tư tưởng Mao Trạch Đông (Mao Zedong Thought)

maozedong

Tác giả: Nguyễn Thành Trung

Theo nghị quyết của Hội nghị Trung ương 6 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa 11 vào tháng 6 năm 1981, Tư tưởng Mao Trạch Đông là “sản phẩm của sự kết hợp các nguyên tắc phổ quát của chủ nghĩa Marx-Lenin và thực tiễn cụ thể của cách mạng Trung Quốc”. Tư tưởng Mao Trạch Đông là một “hệ thống khoa học” biểu trưng cho “sự kết tinh trí tuệ tập thể của Đảng Cộng sản Trung Quốc”. Nhiều nhà lãnh đạo “xuất sắc” của Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng đóng góp vào Tư tưởng Mao Trạch Đông, chứ không phải riêng mình Chủ tịch Mao. Continue reading “Tư tưởng Mao Trạch Đông (Mao Zedong Thought)”

Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC)

scsdoc

Tác giả: Nguyễn Thành Trung

Nhằm đối phó với việc Trung Quốc thi hành chính sách gặm nhấm Biển Đông thể hiện qua việc nước này mở rộng phạm vi chiếm đóng xuống các đảo và bãi đá ở Quần đảo Trường Sa từ năm 1988, tháng 7 năm 1992, ngoại trưởng các nước thành viên ASEAN đã ra Tuyên bố ASEAN về Biển Đông (ASEAN Declaration on the South China Sea) tại thủ đô Manila, Philippines. Đây được coi là lần đầu tiên ASEAN thể hiện lập trường chung của mình về Biển Đông, mặc dù tuyên bố Manila không giải quyết vấn đề chủ quyền lãnh thổ mà chỉ cố gắng đưa ra bộ ứng xử không chính thức dựa trên nguyên tắc tự kiềm chế, không dùng vũ lực và giải quyết tranh chấp bằng hòa bình. Tuyên bố này hầu hết dựa vào các nguyên tắc được giới thiệu trong Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác tại Đông Nam Á (TAC) năm 1976. Continue reading “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC)”

Trường phái Anh Quốc (English School)

ES-ir

Tác giả: Nguyễn Thành Trung

Nguồn gốc của Trường phái Anh Quốc có thể được coi xuất phát từ cuối những năm 1930. Không giống như những lý thuyết có nguồn gốc từ truyền thống dựa trên thuyết hành vi (bahaviouralist) hay thuyết thực chứng (positivist), Trường phái Anh Quốc đại diện cho tổng hòa cách tiếp cận pha trộn lý tính (rationalist) và luân lý (moralist). Nói cách khác, đây là trường phái tư tưởng tập trung vào các đặc điểm và nguyên tắc mang tính đạo đức, chính trị và xã hội của hệ thống quốc tế, và chỉ rõ những đặc điểm và nguyên tắc này vừa giúp hình thành vừa hạn chế lợi ích và hành động của các quốc gia như thế nào. Continue reading “Trường phái Anh Quốc (English School)”

Trừng phạt kinh tế (Economic sanctions)

sanctions

Tác giả: Lê Hồng Hiệp

Trừng phạt kinh tế là việc một hoặc một nhóm các quốc gia hoặc tổ chức quốc tế sử dụng hoặc đe dọa sử dụng các biện pháp kinh tế và tài chính nhằm gây nên phí tổn cho quốc gia bị trừng phạt, qua đó gây sức ép buộc quốc gia đó thực hiện những chính sách nhất định. Ví dụ, Liên minh Châu Âu đã từng đe dọa áp thuế nhập khẩu cao đối với các hàng hóa Mỹ nhập vào Châu Âu nhằm buộc chính phủ Mỹ giảm các khoản trợ cấp cho các nhà sản xuất thép nước này, vốn mang lại những lợi thế bất bình đẳng cho các nhà sản xuất thép Mỹ so với các nhà sản xuất thép Châu Âu. Trong khi đó, Mỹ và các nước phương Tây cũng áp đặt lệnh trừng phạt kinh tế với một loạt nước như Cuba, Iran, Myanmar… nhằm làm suy yếu chính quyền các nước này hoặc buộc họ tiến hành các thay đổi trong chính sách đối nội hoặc đối ngoại theo hướng nhất định. Continue reading “Trừng phạt kinh tế (Economic sanctions)”

Trục ác quỷ (Axis of Evil)

axisevil

Tác giả: Lê Thành Lâm

Thuật ngữ Trục ác quỷ được Tổng thống Mỹ George W. Bush đưa ra trong Thông điệp Liên bang vào ngày 29 tháng 1 năm 2002 nhằm chỉ các quốc gia tài trợ chủ nghĩa khủng bố và có ý định sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt, bao gồm CHDCND Triều Tiên, Iraq và Iran. Một cách sâu rộng hơn, chính quyền Bush còn muốn khẳng định rằng những quốc gia kể trên có thể trở thành mối đe dọa tiềm tàng đối với các đồng minh của Mỹ và hòa bình thế giới. Từ đây, nhiều nỗ lực đã được tiến hành để mở rộng danh sách các quốc gia trong Trục ác quỷ. Trong bài diễn văn ngày 6 tháng 5 năm 2002, Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ John K. Bolton đã tuyên bố Lybia, Syria và Cuba cũng có dấu hiệu tài trợ khủng bố hoặc đang thúc đẩy các chương trình vũ khí hủy diệt hàng loạt nhằm đe dọa nước Mỹ. Continue reading “Trục ác quỷ (Axis of Evil)”

Trách nhiệm bảo vệ (Responsibility to Protect)

responsibility-to-protect1-640x360

Tác giả: Lê Hồng Hiệp

“Trách nhiệm bảo vệ” (Responsibility to Protect – R2P) là một chuẩn tắc hay tập hợp các nguyên tắc cho rằng chủ quyền quốc gia không phải là một đặc quyền bất khả xâm phạm mà là một trách nhiệm, đặc biệt là trong việc bảo vệ người dân của quốc gia đó khỏi các thảm họa nhân đạo và các tội ác chống lại loài người. Trong trường hợp một quốc gia không thể đảm đương các trách nhiệm này, cộng đồng quốc tế có thể nghĩa vụ hỗ trợ hoặc can thiệp để giúp bảo vệ người dân khỏi các nguy cơ trên.

Thảm họa diệt chủng ở Rwanda năm 1994 khiến hơn 800.000 người chết một phần bắt nguồn từ sự chậm trễ và thất bại của Liên Hiệp Quốc và cộng đồng quốc tế trong phản ứng đối với thảm họa này. Chính vì vậy, sau đó Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc Kofi Annan đã nêu lên vấn đề khi nào thì cộng đồng quốc tế cần can thiệp vào một quốc gia để bảo vệ cho người dân quốc gia đó trước các thảm họa nhân đạo? Continue reading “Trách nhiệm bảo vệ (Responsibility to Protect)”

Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)

wto

Tác giả: Nguyễn Thị Tâm

Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ra đời từ tổ chức tiền thân là Hiệp định Chung về Thuế quan và Mậu dịch (General Agreement on Tariffs and Trade – GATT). WTO được thành lập theo Hiệp định Thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới ký tại Marrakesh (Marốc) ngày 15/04/1994, và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/01/1995. Đây là tổ chức quốc tế duy nhất đề ra những nguyên tắc thương mại giữa các quốc gia trên thế giới. Trọng tâm của WTO chính là các hiệp định đã và đang được các nước đàm phán và ký kết. WTO có trụ sở chính ở Geneva, Thụy Sĩ. Cho tới tháng 7 năm 2016, tổ chức này có 162 nước thành viên. Vào ngày 11/01/2007, Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức này. Continue reading “Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)”

Tổ chức Phi Chính phủ (NGOs)

ngo

Tác giả: Nguyễn Thị Tâm

Một trong những điểm quan trọng trong quan hệ quốc tế hiện đại là sự ra đời ngày càng nhiều của các tổ chức phi chính phủ. Tính liên kết ngày càng tăng, một phần nhờ vào sự cải thiện trong giao thông và liên lạc, đã thúc đẩy sự ra đời của hàng ngàn tổ chức, cơ quan và nhóm chuyên trách. Những cơ quan, tổ chức và nhóm này được thành lập bao gồm nhiều cá nhân, được trả tiền hoặc tình nguyện, cam kết giải quyết một loạt các vấn đề như bảo vệ môi trường, cải thiện mức sống của thế giới thứ ba, chấm dứt nạn xâm phạm nhân quyền, cung cấp lương thực và thuốc men cho những nơi diễn ra chiến tranh, tăng cường phát triển tôn giáo hay đấu tranh cho quyền lợi của phụ nữ. Một điểm nổi bật nhất của các tổ chức phi chính phủ là việc các tổ chức này tạo ra những hệ thống gắn kết và mạng lưới kết nối những cá nhân xuyên quốc gia. Continue reading “Tổ chức Phi Chính phủ (NGOs)”

Tổ chức Liên Chính phủ (IGOs)

United Nations Nominates Next Secretary-General

Tác giả: Nguyễn Thị Hồng Vân

Những tổ chức liên chính phủ đầu tiên ra đời vào thế kỷ 19. Thời kỳ đó chủ yếu là các tổ chức mang tính chất chuyên môn kỹ thuật như Ủy ban Trung ương sông Ranh, thành lập năm 1815; Liên minh Bưu chính Toàn cầu, thành lập năm 1874… Tổ chức toàn cầu đầu tiên có thẩm quyền chung là Hội Quốc Liên, thành lập năm 1919 với mục đích giữ gìn hòa bình quốc tế. Năm 1945 tổ chức này được thay thế bằng tổ chức Liên Hiệp Quốc. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai số lượng các tổ chức liên chính phủ đã tăng lên đáng kể. Với xu thế hội nhập toàn cầu như hiện nay thì việc mở rộng hợp tác giữa các quốc gia về mọi mặt của đời sống là điều tất yếu. Do đó, các mô hình hợp tác khác của quốc gia, đặc biệt là thông qua các tổ chức liên chính phủ, ngày càng được mở rộng và trở nên phong phú. Continue reading “Tổ chức Liên Chính phủ (IGOs)”

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD)

oecd

Tác giả: Nguyễn Thị Tố Nga

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organization for Economic Cooperation and Development), viết tắt OECD, là một tổ chức liên chính phủ được thành lập theo một hiệp định ký tại Paris vào ngày 14 tháng 12 năm 1960 nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội của các nước thành viên và thế giới, tăng cường thương mại quốc tế. OECD có trụ sở chính đặt tại Paris (Pháp). Continue reading “Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD)”

Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO)

sigla_nato_1

Tác giả: Lê Thành Lâm

Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) được phát triển từ Hiệp ước Phòng thủ tập thể Brussels do Anh, Pháp và ba nước Benelux (gồm Bỉ, Hà Lan và Luxembourg) ký tháng 3 năm 1948. Tổ chức này ra đời một phần do tâm lý lo sợ chiến tranh của các nước, nhất là sau cuộc khủng hoảng Tiệp Khắc. Mục đích chính của NATO là ngăn chặn Liên Xô, bảo vệ an ninh và duy trì ổn định ở Tây Âu. Ngày 04/04/1949, Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương được ký ở Washington và chính thức có hiệu lực vào tháng 8/1949. 12 quốc gia tham gia Hiệp ước bao gồm: Hoa Kỳ, Anh, Pháp, ba nước Benelux, Ý, Bồ Đào Nha, Na Uy, Đan Mạch, Ai-len và Canada. Kể từ khi thành lập, NATO đã 6 lần mở rộng và hiện bao gồm 28 thành viên. Ngoài 12 thành viên ban đầu, các thành viên được kết nạp thêm gồm Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ (1952), Cộng hòa Liên bang Đức (1955), Tây Ban Nha (1982), Cộng hòa Séc, Ba Lan, Hungary (1997), Bungari, Estonia, Litva, Latvia, Rumani, Slovakia, Slovenia (2004), Anbani và Croatia (2009).  Trụ sở chính của tổ chức được đặt tại thành phố Brussels (Bỉ). Continue reading “Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO)”

Tổ chức các Nước Xuất khẩu Dầu lửa (OPEC)

opec

Tác giả: Nguyễn Thị Tố Nga

Tổ chức các Nước Xuất khẩu Dầu lửa (Organization of Petroleum Exporting Countries), viết tắt OPEC, là một tổ chức liên chính phủ được thành lập tại Hội nghị Baghdad năm 1960. Năm nước thành viên sáng lập của OPEC là Iran, Iraq, Kuwait, Ảrập Xêút, và  Venezuela. Tính đến thời điểm tháng 11 năm 2009, OPEC có tất cả 12 thành viên, bao gồm Algeria, Angola, Ecuador, Iran, Iraq, Kuwait, Libya, Nigeria, Qatar, Ảrập Xêút, Các Tiểu vương quốc Ảrập thống nhất, và Venezuela. Indonesia là quốc gia duy nhất ở Đông Nam Á từng là thành viên của OPEC từ năm 1962 đến tháng 1 năm 2009. Indonesia rút ra khỏi OPEC sau khi nước này tuyên bố trở thành nước nhập khẩu dầu lửa vào tháng 5 năm 2008. Trụ sở của OPEC đặt tại Viên, Áo và được điều hành bởi một Tổng Thư ký. Continue reading “Tổ chức các Nước Xuất khẩu Dầu lửa (OPEC)”

Toàn cầu hóa (Globalization)

globalization-edudemic

Tác giả: Lê Hồng Hiệp

Xuất hiện từ những năm 1960, “toàn cầu hóa” đã trở thành một trong những khái niệm được sử dụng rộng rãi nhất trong ngành khoa học xã hội đương đại và đồng thời là một trong những vấn đề gây nhiều tranh cãi nhất. Toàn cầu hóa có thể hiểu là một hiện tượng gắn liền với sự gia tăng về số lượng cũng như cường độ của các cơ chế, tiến trình và hoạt động nhằm thúc đẩy gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trên thế giới cũng như sự hội nhập kinh tế và chính trị ở cấp độ toàn cầu. Theo đó, toàn cầu hóa làm lu mờ các đường biên giới quốc gia, thu hẹp các khoảng không gian trên các khía cạnh đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa của thế giới. Continue reading “Toàn cầu hóa (Globalization)”

Tính chính đáng (Legitimacy)

legitimacy

Tác giả: Lê Hồng Hiệp

Tính chính đáng là một trong những chủ đề quan trọng nhất trong ngành nghiên cứu chính trị. Tuy nhiên định nghĩa và đo lường tính chính đáng là một điều không dễ, thể hiện ở việc nhiều học giả đưa ra những định nghĩa khác nhau về khái niệm này. Tuy nhiên có thể thấy một phần lớn các nghiên cứu về tính chính đáng dựa trên định nghĩa của Max Weber. Theo Weber, tính chính đáng là cơ sở của mọi hệ thống quyền hành và là nguồn gốc dẫn tới sự tự nguyện tuân thủ quyền hành đó. Tính chính đáng được xây dựng trên cơ sở niềm tin của người dân đối với chính quyền, thừa nhận rằng chính quyền đó xứng đáng được cầm quyền. Niềm tin của người dân vì vậy mang lại cho chính quyền uy tín lãnh đạo. Tính chính đáng cũng bắt nguồn từ sự độc quyền của nhà nước đối với việc sử dụng bạo lực, được đảm bảo thực thi một cách hợp pháp thông qua bộ máy chính quyền và các tòa án tư pháp. Continue reading “Tính chính đáng (Legitimacy)”

Thuyết ổn định nhờ bá quyền (Hegemonic stability theory)

hegemony

Tác giả: Lê Hồng Hiệp

Thuyết ổn định nhờ bá quyền là một học thuyết trong quan hệ quốc tế, kết hợp giữa những tư tưởng của chủ nghĩa hiện thực lẫn chủ nghĩa tự do. Thuyết này cho rằng hệ thống quốc tế sẽ có xu hướng ổn định hơn khi có một quốc gia bá quyền áp đảo toàn bộ hệ thống. Khi thực hiện vai trò lãnh đạo hệ thống, quốc gia bá quyền này có thể thông qua các biện pháp như ngoại giao, ép buộc hay thuyết phục, dụ dỗ… nhằm đưa ra và đảm bảo thực thi các nguyên tắc và các dàn xếp trong các mối quan hệ kinh tế và chính trị quốc tế, đặc biệt là giữa những quốc gia quan trọng nhất trong hệ thống. Continue reading “Thuyết ổn định nhờ bá quyền (Hegemonic stability theory)”

Thuyết chuyển đổi quyền lực (Power transition theory)

13756957204_28815235be_b_5

Tác giả: Trương Minh Huy Vũ

Thuyết chuyển đổi quyền lực tập trung vào phân tích mối quan hệ giữa các cường quốc trong hệ thống quan hệ quốc tế khi xuất hiện thay đổi về cán cân sức mạnh. Mặc dù thừa hưởng nhiều yếu tố của chủ nghĩa hiện thực như xem sức mạnh và sự phân phối sức mạnh đóng vai trò thiết yếu trong việc phân định kết quả chính trị thế giới, nhưng Thuyết chuyển đổi quyền lực lại nhìn thế giới bằng một nhãn quan khác. Theo đó, trật tự thế giới không phải là vô chính phủ, mà được phân thành một hệ thống thứ bậc dựa trên sức mạnh của các quốc gia. Continue reading “Thuyết chuyển đổi quyền lực (Power transition theory)”